Thứ Sáu, 29 Tháng Ba 2024
Luật tạngOai Nghi Con Đường Của Sự Tỉnh Thức

Oai Nghi Con Đường Của Sự Tỉnh Thức

Nhập Chúng
“Là chẳng được tranh chỗ ngồi, chẳng được ngồi chỗ cao xa, kêu nhau nói cười. Trong
chúng có sơ thất oai nghi phải giấu kỹ, bày cái pháp lành.”
Trong chúng lỡ mất oai nghi, thì phải giấu kỹ, chứ không được nói cho cư sĩ biết. Chẳng
hạn về nhà cư sĩ hay về nhà cha mẹ, quý thầy kể: “Ông thầy đó hay ngồi chồm hổm,
ngồi rung đùi…” là không được, phải giấu. Ngồi chồm hổm là mất oai nghi, người ta coi
thường.
Sa-di Học Xứ ghi:
“Phàm muốn vào chúng phải đầy đủ năm pháp: Thứ nhất là nên dùng từ tâm, thứ hai là tâm
phải khiêm cung thấp mình xuống. Thứ ba là phải biết pháp tọa khởi, thứ tư là ở trong Tăng
kia chẳng bị tạp loạn, thứ năm là nếu thấy trong Tăng có việc chẳng có thể nhẫn nên im
lặng.”
1– Thứ nhất là nên dùng từ tâm.
Phải dùng từ tâm thương xót đại chúng.

2- Thứ hai là tâm phải khiêm cung thấp mình xuống.
Lục Tổ dạy:
“Trong tâm khiêm hạ là công, bên ngoài hành lễ phép là đức. Nếu người tu công đức, tâm tức
không có khinh, thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngã không dứt tức là
không công, tự tánh hư vọng không thật tức là tự không đức. Vì ngô ngã tự đại thường khinh tất
cả.”
Vào trong chúng luôn giữ tâm khiêm hạ, thấp mình thì ở chỗ nào cũng được.
Thiền thoại có ghi:
Học tăng trong thiền viện Long Hổ họa bức tranh rồng đấu với hổ mà vẽ mãi không
thành. Tuy sửa đổi nhiều lần mà những chi tiết trong tranh vẫn chưa ổn. Chợt gặp
Thiền sư Vô Đức từ ngoài vào, học tăng thỉnh ngài chỉ dạy. Thiền sư xem xong
nói: Rồng đang công kích tới trước, đầu phải thụt lùi ra sau, hổ muốn chồm lên thì đầu phải
mọp xuống. Rồng thụt đầu ra sau thì cổ càng lớn, đầu hổ càng sát đất thì nhảy vọt càng cao.”
Nhân cơ hội này Thiền sư Vô Đức chỉ dạy: “Làm người xử sự với nhau và đạo lý tham thiền
tu đạo cũng giống như thế, lùi lại một bước về sau thì khả năng tấn công về trước càng xa; phản
tỉnh khiêm hạ thì năng lực vươn lên lại càng cao.”
Cũng như các thế võ Thiếu Lâm Tự, muốn đánh là phải lùi bước, lùi bước thì tấn đến
mới nhanh. Càng thụt lùi thì đối phương càng sợ, vì không biết mình đang thủ cái thế
gì. Đó là người có võ. Còn người không võ mà thụt lùi là chuẩn bị chạy. Trong ba mươi
sáu thế, thế cuối cùng là bỏ dép chạy!
Phương pháp tu đạo cũng vậy, phải khiêm nhường. Khiêm nhường là lúc đang tiến lên.
Áp dụng như thế sẽ có năng lực làm Phật sự sau này. Ngày xưa, nếu tôi học kỹ chỗ này
thì làm Phật sự không thất bại. Cương quá thì tự nó gãy, đổ vỡ hết.
Ngài nói bài kệ:
Tay cầm mạ non cấy xuống ruộng,
Cúi đầu nhìn thấy trời trong nước,
Thân tâm thanh tịnh mới là đạo,
Lùi bước chính là đang tiến lên.
Cúi xuống nhìn mặt nước thấy bầu trời, thấy trăng sao, thấy đủ thứ hết. Cấy lúa phải đi
lùi, nếu đi tới thì giẫm đạp lên lúa. Mà đi lùi thì thấy sanh trưởng, chỗ nào cũng màu
xanh hết. Lùi bước chính là đang tiến lên.
Tại sao mình tu mà còn cống cao ngã mạn? Ngài Trí Chiêu Luật Sư có dạy:
“Tiếng Phạn gọi là bhiksu, Trung Hoa dịch là khất sĩ, tức có nghĩa là người xin ăn. Nghĩa
là bên trong thì xin giáo pháp của mười phương chư Phật để trị tâm, bên ngoài thì xin cơm của
đàn việt để nuôi thân. Cũng phải giã từ, trước nhất là tóc râu, cái mà người đời quý trọng cũng
phải cạo bỏ hết; giàu sang của bảy báu tràn đầy cũng vứt bỏ đồng như cỏ rác; tôn quý quyền uy
nhất phẩm mà cũng xem đó khác gì mây khói. Chán ngấy thân vô thường, xét cùng tột đến gốc rễ
nguyên chơn, muốn cho chí khí thanh cao hẳn phải dẹp thân giả tạm.”

Theo ngài, sở dĩ tu mà không khiêm nhường, lại còn cống cao ngã mạn là vì xét không
thấu đáo cội nguồn. Phải nghiệm lại mình là ai. Là khất sĩ! Khất là xin, khất sĩ là người
ăn xin thôi chứ gì đâu. Trên thì xin giáo pháp mười phương chư Phật, dưới xin của đànna tín thí để nuôi cái thân này. Là khất sĩ tại sao còn ngã mạn? Xét đi xét lại cho thấu
tột cội nguồn thì tâm ngã mạn chìm xuống, tâm khiêm cung sẽ lấn át lên và có năng
lực thù thắng.
“Cầm tích trượng giống như cầm gậy khô, kẻ ăn mày mang bình bát nào khác mang chén mẻ.
Vai khoác cà-sa xem như mặc áo rách, tay mang túi đãy xem đồng như túi cói. Phải trong sạch
nuôi mạng sống, giữ mình tắm nhuần trong tám Thánh đạo.”
Ngài nói rất rõ, phải xét cội nguồn coi mình như người ăn mày ăn xin. Coi được như thế
thì vào trong chúng làm bất cứ chuyện gì cũng được, mà luôn luôn khiêm nhường. Ngài
nói khiêm nhường là năng lực của đạo.
Kinh Tiểu Tạp Thí Dụ quyển Hai có kể câu chuyện:
Ở nước nọ, có vị thầy chuyên tụng chú để cảm hóa rồng. Thầy tắm rửa sạch sẽ, đem
bình đựng đầy nước đến bên ao rồng tụng chú. Khi ấy, rồng ở trong ao thấy lửa từ đáy
ao phọt lên rồi lan ra khắp ao, chỗ nào cũng đều có lửa. Rồng quá sợ hãi, ngước đầu
nhìn lên núi, lại thấy lửa lớn đốt cháy núi rừng. Không thấy chỗ nào để nương tựa,
khắp nơi đều bị lửa đốt cháy, không có nơi nào làm đất dung thân, chỉ còn lại bình
nước mát là nơi có thể vào đó tị nạn. Muốn vào bình nước mát đó, phải dẹp bỏ thân lớn
biến thành thân hình nhỏ gọn mới có thể vào được.
Phật ví ao rồng như là cõi dục. Ngước nhìn lên núi ví như cõi sắc, cõi vô sắc, tức là ba
cõi đều bị lửa dục thiêu đốt. Thầy tụng chú cảm hóa rồng ví như Bồ-tát. Dùng chú
thuật ví như pháp phương tiện. Lửa lớn đốt cháy ví như hiện cảnh vô thường. Rồng có
thân to ví như lòng kiêu mạn. Thân hình nhỏ ví như lòng khiêm tốn. Muốn đạt đến chỗ
chánh định, chánh thọ, phải thu thúc, biến thành hình nhỏ thì mới vào được tam muội
này.
Qua bài này, quý thầy thấy rằng ở trong chúng không được có tâm kiêu mạn. Muốn vào
được nước chánh định, ngộ nhập được tri kiến Bát-nhã phải luôn có tâm khiêm hạ.
3- Thứ ba là phải biết pháp tọa khởi.
“Sa-di tiểu chúng thấy người thọ cụ túc giới trọn nên khởi đứng dậy.”
Thấy người thọ giới trước, thì đứng dậy xá chào.
“Nếu thấy thượng tọa chẳng nên ngồi yên.”
Chẳng hạn mình đang lặt rau hay làm bất cứ công việc gì mà quý thầy lớn như thầy Trụ
trì, Thầy cố vấn đi qua mình phải đứng dậy.
“Nếu thấy hạ tọa chẳng nên khởi đứng.”
Người nhỏ hơn mình, không đứng dậy không có lỗi.
4- Thứ tư là ở trong Tăng kia chẳng bị tạp loạn

Tổ dạy, ở trong Tăng chúng chẳng theo người đàm tiếu việc đời. Trong tăng đường,
người ở đơn kế bên nói chuyện, nhất là những chuyện ngoài đời, nếu không tỉnh giác,
chánh niệm thì mình dễ chạy theo, dễ bị vọng tưởng dẫn.
5- Nếu thấy trong Tăng có việc chẳng có thể nhẫn nên im lặng.
Nghĩa là việc nào nhẫn được trong nói năng thì nhẫn trong nói năng, chẳng thể nhẫn
trong nói năng thì nên nhẫn trong im lặng.
Luận Đại Trí Độ nói:
“Đệ tử Phật Thánh trụ trong hòa hợp có hai thứ pháp: thứ nhất là nói năng như Hiền Thánh,
thứ hai là im lặng như Hiền Thánh.”
Hồi xưa, tôi hiểu nói năng như Hiền Thánh là nói Phật pháp. Nói Phật pháp tức là nói về
Kinh Phật. Nói về Kinh Phật mà như cãi lộn thì giống Hiền Thánh chưa? Chuyện này
trong Tăng chúng hay vấp phải. Mới đầu thì cũng nói Phật pháp, nhưng sau đó thì
tranh luận Phật pháp! Như trong bài Sám Hối sáu Căn: “Kinh luận tranh giành, cùng nhau
công kích.” Như vậy không phải là Hiền Thánh nữa.
Sau này được Hòa thượng, rồi quý thầy lớn chỉ dạy, mới giật mình về điểm này. Nói
Phật pháp mà giống như công kích, hơn thua với nhau, các ngài gọi là nói năng như Lasát, chứ không phải như Hiền Thánh. Rồi giận, mà không nói nữa, các ngài gọi là im
lặng như A-tu-la! Vì im lặng mà bên trong bực bội!
Phật nói pháp là vì chúng sanh phá chấp. Chư Tổ cũng vậy. Chẳng hạn có người
hỏi: “Có định nghiệp hay bất định nghiệp không?” Thì quý thầy nói có cũng được mà nói
không cũng được. Có một vị Tăng đến hỏi Lục Tổ Huệ Năng: “Phật tánh là thường hay vô
thường?” Rõ ràng Phật tánh là thường hằng, tất cả Kinh Phật đều nói thế nhưng Tổ nói
vô thường, bởi phá cái chấp thôi. Vì chấp cái gì cũng là thường nên Tổ nói vô thường
để phá.
Biết được như vậy rồi ai nói gì thì nói, mình im lặng, đó gọi là im lặng như Hiền Thánh.
Lục Tổ nói rằng, nói với người đồng kiến, đồng hành để cho họ hiểu, tu là nói năng như
Hiền Thánh, trong chúng cũng cần như thế.
Hiểu sâu hơn nữa, nói năng như Hiền Thánh không hẳn là chỉ nói chánh pháp. Lúc nào
cũng đưa Phật pháp ra, nhiều khi người ta không thích mà còn giận mình nữa. Như
vậy, nói cho đúng tinh thần là tùy theo hoàn cảnh mà nói lời nhu nhuyến, thanh tịnh,
cởi trói cho họ là nói năng như Hiền Thánh.
Còn có những trường hợp không nói gì mà dùng sự im lặng mở trói cho họ, thì đó là im
lặng như Hiền Thánh. Điều đó mới quan trọng, chứ không phải tranh cãi, công kích,
luận bàn, cho dù luận bàn Phật pháp thì cũng không đúng.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Chẳng được tranh chỗ ngồi. Nói chẳng có từ tốn, mà ngồi còn chẳng có thích nghi, huống
nữa là tranh ư? Song trong tùng lâm, vị trí chỗ ngồi mỗi mỗi có thứ lớp. Sa-di lấy giới pháp
thứ lớp mà ngồi. Nếu có tranh thì mất pháp độ tùng lâm.”

Ngồi ăn cơm, ngồi thỉnh nguyện, bất cứ sự việc nào cũng đều lấy giới pháp làm trọng.
Sa-di xuất gia cùng một lượt thì lấy tuổi đời làm mốc. Còn Sa-di xuất gia trước, cho dù
một tháng, hai hay ba tháng cũng ngồi trước cho dù mình nhỏ tuổi hơn. Đây là Sa-di
lấy giới pháp làm thứ lớp mà ngồi.
Trong Kinh A Hàm có câu chuyện:
Vào thời Đức Phật, một hôm Phật báo đại chúng là hôm nay đi du hành xa. Trong
chúng lúc này có lục quần Tỳ-kheo đi theo. Họ tranh chỗ ngủ, để Tôn giả Xá-lợi-Phất
ngủ ngoài hiên. Sáng hôm sau Phật biết được, ngài kể câu chuyện: Con voi, con khỉ và
con két chơi với nhau rất thân. Một hôm, chúng tìm hiểu thì biết được con két lớn tuổi
nhất, nên lúc nào cũng nhường két đi trước.
Phật nói, pháp Phật bình đẳng về tánh Phật nhưng cũng phải có thứ lớp. Người thọ giới
trước đi trước, thọ giới sau đi sau thì mới đúng pháp độ tùng lâm. Chẳng hạn, có vị Tỳkheo nào đến, quý thầy phải hỏi vị đó được bao nhiêu hạ để sắp xếp chỗ ngồi hay ngủ
nghỉ. Phải lấy pháp độ tùng lâm làm chính.
“Chẳng được ngồi chỗ cao xa, kêu nhau nói cười.”
Người học oai nghi phép tắc, rồi chịu khó áp dụng một thời gian sẽ rất là thuần, cho dù
tuổi nhỏ. Còn những người ỷ mình đã thọ giới cụ túc, hoặc nghĩ mình lớn rồi, không cần
học oai nghi phép tắc thì người ta nhìn biết liền: “Thầy này tuy thọ giới Tỳ-kheo nhưng
chắc không học oai nghi.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Đây như các Bà-la-môn tụ họp không khác, chẳng thành Tăng thể. Nếu có việc cần, phải
đàn chỉ khiến biết, nói nhỏ khiến nghe. Nếu ở xa kêu nhau nói cười coi như không người,
làm mất oai nghi động chúng, lỗi chẳng phải nhỏ.”
“Trong chúng có mất oai nghi phải ẩn ác, dương thiện, nghĩa là ẩn cái ác của người, nêu bày
cái thiện của người. Ẩn ác thì tự thêm lớn công đức, dương thiện thì khiến chúng thêm xán
lạn. Diễn Tổ nói: Người xưa vui cái nghe lỗi của mình, vui đối với việc làm thiện, thêm lớn đối
với sự đùm bọc thân sơ, coi trọng đối với việc ẩn ác, lấy sự khiêm tốn giao hữu, lấy việc tinh cần
giúp chúng, chẳng dùng hai tâm được mất, cho nên ánh sáng to lớn chiếu khắp huy hoàng xưa
và nay.”
Trong chúng mà có mất oai nghi thì cũng đừng nêu cái xấu của chúng ra. Chẳng hạn
có một thầy nào đó hay giỡn, hay cười làm mất oai nghi phép tắc thi cũng đừng có kể
ra: “Thầy đó như thế, như thế…” Phải ca ngợi công đức của tùng lâm cho cha mẹ,
người thân biết để họ phát khởi tín tâm. Đó gọi là ẩn ác, dương thiện. Ẩn cái ác của
người thì tự thêm lớn công đức, phát huy được tâm bao dung và tha thứ. Nêu cao cái
thiện, tùng lâm được cư sĩ Phật tử, người thân mình biết đến, nên khiến chúng thêm
xán lạn.
Người xưa tu họ rất coi trọng chỗ này, tức là luôn luôn ẩn ác. Còn mình, mới nghi thôi
chứ chưa thấy chính xác, đã đi đầu này đầu kia nói cho mọi người biết. Người tu bây
giờ thấp hơn người xưa rất nhiều, cho nên đạo rất là xa. Nhiều khi nói, tu bây giờ sao không ngộ đạo giống như người xưa. Sao mà ngộ được, không chịu ẩn ác dương thiện,
tự tánh bị che lấp, ngày càng lu mờ nên không bằng người xưa.
Thiền sư Linh Nguyên nói:
“Phải khéo ở trong Phật pháp mà dụng tâm, ở trên trần cảnh mà dẹp tình. Dưới lớp áo cà-sa sợ
mất thân người thật là khổ nên phải ẩn ác dương thiện.”
Muốn chắc chắn kiếp sau được làm người, mặc áo cà-sa nữa là luôn phải ẩn ác dương
thiện.
“Chẳng được khoe sự nhọc để rõ công lao của mình. Phàm ở đâu ngủ không nên ngủ trước
người, dậy không nên dậy sau người.”
Quý thầy làm việc cực nhọc, ban điện, ban nước hoặc ban gì đó mà đi chỗ nào cũng
nói: “Không có tui thì không có điện nước xài, hoặc không có tui thì không có đậu hủ
ăn…” Đi đâu cũng khoe sự nhọc thì không có công đức, cũng không có phước đức.
Nhiều khi mình tưởng làm những việc này là cho Hòa thượng, cho thầy Trụ trì, cho đại
chúng, thật ra mình làm cho chính mình. Đi tu, ai cũng muốn thành tựu quả vị Phật, mà
hành Bồ-tát đạo thì phải làm tất cả mọi việc mới thành tựu quả vị Phật được. Thấy
được như thế thì từ việc lớn tới việc nhỏ, quý thầy đều làm hết sức mình, làm trong
chánh niệm, trong an lạc thảnh thơi chứ không phải làm mà gượng ép.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Không ngủ trước và dậy sau có hai việc: thứ nhất là mình khỏi giải đãi, thứ hai là khỏi động
niệm chúng.”
Điều này quan trọng nhất. Chúng dậy hết rồi, súc miệng, rửa mặt chuẩn bị ngồi thiền
mà mình vẫn còn ngủ, thí dụ trong Tăng đường có mười chín người, thì mười tám
người khởi niệm. Mà khởi niệm thì khó tu. Hễ mình ngủ thì chắc chắn họ khởi niệm.
Nên thiền sư Kiến Nguyệt Lão Hòa thượng khai thị chúng rằng:
“Mình dậy sớm là được cái sức tinh tấn. Tinh tấn là bảo vật tu đạo. Phật Tổ do đây mà thành,
phiền não nhân đây mà đoạn. Là Thích tử há có thể giải đãi ư?”
Thành Phật, tác Tổ là do sức tinh tấn mà thành. Phiền não nhân đây mà đoạn, tức là
bệnh tật, phiền não chướng, sở tri chướng, những cái chướng nạn của mình nhân nhờ
sự tinh tấn mà đoạn trừ.
Một hôm Phật bảo tôn giả A-nan đọc cho Phật nghe Thất Bồ-đề Phần, đến đoạn Tinh Tấn
Như Ý Túc, Phật ngồi dậy liền dù ngài đã lớn tuổi và bị đau lưng. Tôn giả A-nan bạch
Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, tại sao đọc đến đoạn “Tinh tấn như ý túc”, Thế Tôn lại ngồi dậy?
Phật trả lời:
– Bài này không chỉ Như Lai nói mà mười phương chư Phật đều nói như vậy.

Kinh Di Giáo Phật dạy:
“Tỳ-kheo các ông nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc gì là khó. Thế nên các ông phải
chuyên cần tinh tấn, thí như giọt nước chảy luôn có thể soi thủng phiến đá. Nếu như tâm của
hành giả thường thường biếng nhác bỏ bê, chẳng khác nào kéo lửa chưa nóng mà ngưng, tuy
muốn được lửa, lửa cũng khó được. Ấy là công đức tinh tấn.”
Phật dạy rất là rõ, ngày xưa không có hộp quẹt gas, muốn có lửa phải dùng hai cây tre
cọ xát liên tục cho nóng thì lửa mới phựt lên. Còn ở đây quý thầy cọ cọ một lát rồi bỏ.
Tại sao thời nay tu khó chứng đạo hơn ngày xưa? Nghiên cứu sử, tôi thấy các ngài
chứng đạo nhanh hơn, vì các ngài luôn khắc khoải ưu tư về vấn đề sanh tử, việc sanh
tử luôn đặt lên hàng đầu: Tại sao mình sanh ra trong cõi đời này? Mình có mặt trong
cuộc đời này để làm gì? Chết đi về đâu? Sanh tử sự đại vô thường tấn tốc luôn thúc các
ngài nên các ngài tu tiến.
Người tu bây giờ chấp nhận hoàn cảnh, hoàn cảnh sao cũng mặc kệ để y như vậy chứ
không phấn đấu vươn lên. Sáng ngồi thiền cũng được, không thì trưa hay chiều, cái gì
cũng được, cho nên tu không bao giờ tiến.
Có lỗi, bị quý thầy lớn rầy, mình buông hai câu: “Bất quá tôi cởi áo hoàn tục, ra đời là
xong!” Tư tưởng như thế nên đạo rất xa. Quý thầy đừng để cái niệm đó xảy ra trong
tâm thức của mình. Chắc gì ra đời rồi tu được nữa, hoặc kiếp sau chắc gì gặp Phật
pháp nữa.
Cho nên trong Kinh Bột Sao Phật nói:
Người muốn làm việc gì,
Như đào giếng lấy nước,
Phải đào mãi không thôi,
Chắc chắn sẽ được nước.
Làm việc cũng giống như đào giếng. Đào xuống nửa chừng, gặp cục đá rồi bỏ, thì cái
pháp tinh tấn nó không có nữa. Các ngài gặp bất cứ việc gì cũng đều gắng sức. Đi tu
rồi thì trên đầu chỉ nhớ một chữ tu chớ đừng nghĩ gì khác. Đừng nghĩ phải ráng học để
lấy bằng cấp, rồi mai kia không biết làm trụ trì ở đâu. Bỏ hết, chỉ nghĩ tu thôi. Tu mà
thành tựu, đủ sức rồi thì tự nhiên có người mời, thậm chí thỉnh mình đi. Còn chưa đủ
đức thì phải ráng tu cho được thành tựu.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Phàm rửa mặt chớ nên hao nhiều nước, một là phòng ngừa người sau thiếu nước, hai là
phải tích chứa phước mình.”
Tôi chứng kiến nhiều người trong chúng, mở hết cái vòi nước, kê mặt vô rửa, chà suốt.
Mà phước mình bao nhiêu không biết. Người xưa không phải như vậy:
Nhiệt thủy dụng nhơn thiêu,
Lãnh thủy dụng nhơn khiêu,
Nhược bất giải tu hành,
Túng hữu hà sa phước diệt tiêu.
Nghĩa là:
Nước nóng công người nấu,
Nước lạnh công người gánh,
Nếu không hiểu tu hành,
Hằng sa phước đức cũng tiêu tan.
Ngày trước không có bình nước nóng như bây giờ mà phải nấu, tắm rửa cũng phải nấu.
Bây giờ nước nóng dùng điện. Tiền điện hàng tháng, cũng là nước nóng công người
nấu, cứ xả xài thoải mái luôn! Rồi gì nữa? Nước lạnh công người gánh, máy bớm, cũng
tiền điện, tiền nước. Tiền của đàn-na tín thí. Nếu không hiểu tu hành, hằng sa phước đức
cũng tiêu tan. Đó là Cổ đức nói.
Kinh Tạp Thí Dụ quyển Hai có ghi: A-nan bạch với Đức Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, ngài sinh trong vương cung, xuất gia tìm đạo, sáu năm khổ hạnh,
sau đó ngồi dưới gốc cây Bồ-đề mà được giác ngộ thành Phật. Như vậy quả Phật có
phải là dễ được không? Thành tựu rất là dễ phải không?
Phật không trả lời mà kể câu chuyện:
– Ngày xưa, có vị trưởng giả giàu có biết rằng ở vùng biển phía Bắc có một giống sò,
nếu chúng ăn máu thì tiết ra một loại quý. Ông cùng nhiều người đến vùng biển đó,
trích lấy máu trong thân, đựng trong túi đặt dưới đáy biển. Con sò nghe mùi máu tanh
sẽ đến và tiết ra chất ngọc quý. Lựa chọn suốt ba năm mới được hạt ngọc bội châu.
Trên đường về, một số người muốn giành hạt ngọc nên xô ông xuống giếng rồi lấp lại.
Không ngờ, dưới giếng có một cái hang nên ông thoát được trở về. Về nhà, ông tố giác
những người hại ông nên họ phải trả ngọc lại cho ông.
Một hôm, người con lớn hỏi:
– Ngọc châu này từ đâu mà có?
Đứa nhỏ trả lời:
– Nó sanh từ trong túi của em.
Đứa lớn nói:
– Không phải, nó được sanh và được cất giữ trong túi nhà mình.
Ông trưởng giả cười nói với vợ:
– Hai đứa nhỏ không biết gì hết.
Rồi ông kể cho hai con nghe, để có được viên ngọc này ông đã rất cực khổ, suýt nữa là
mất mạng. Có được viên ngọc không phải là dễ.
Ông trưởng giả ví dụ cho Đức Phật, hai đứa nhỏ ví cho chúng sanh. Chúng sanh tưởng
quả vị Phật dễ lắm, tu một thời gian là thành tựu.
Phật nói:
“Muốn thành tựu đạo quả, phải phát tâm tu theo lục độ vạn hạnh của Bồ-tát, tích chứa công đức
trong nhiều kiếp, chớ chẳng phải chỉ làm một việc, tu một hạnh, xả bỏ một thân mà có thể thành
tựu đạo quả.”
Phật trải qua vô lượng kiếp, tích chứa rất nhiều, làm tất cả các việc phước thiện và tu
tất cả lục độ vạn hạnh của Bồ-tát thì mới thành tựu được. Cũng vậy, muốn tu thành tựu
quả vị cuối cùng thì phải tích chứa phước. Quý thầy xài hết phước, một thời gian tu
không được nữa phải ra đời rất là khổ.
Tôi chứng kiến, một người cùng tôi đi làm Phật sự mà xài nước rất phí. Mỗi lần rửa
mặt, xả nước chừng nào xong mới vặn lại, nhiều khi quên, tôi phải vào tắt. Người này
tu cũng tinh tấn, nhưng một thời gian hoàn tục ra đời, tu không được. Cho nên mình
xài phước phải kỹ.
Trong số những người tu không được mà hoàn tục, cũng có người sung sướng chớ
không phải ai cũng khổ. Nhưng tôi nghiệm kỹ, những người đó lúc còn ở trong chúng,
họ xả thân làm việc phục vụ cho đại chúng. Họ tu không được nữa họ ra đời nhưng
phước họ vẫn còn. Phát tâm xuất gia nhưng mình xài phước phung phí, làm hao tổn
của Tam bảo, phá phách trong tùng lâm, không kính những bậc trưởng thượng đi
trước, bảo đảm những người này ra đời sẽ rất khổ. Quý thầy nhớ lưu ý điểm này mà
gắng tu.
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có ghi:
Thiền sư Động Sơn xuống nhà bếp thấy tăng chúng làm đổ bún gạo, ngài khởi niệm
quở trách thì lúc này thổ địa bước ra đảnh lễ, nói là ba mươi năm tìm ngài suốt mà
không gặp, hôm nay nhờ ngài khởi niệm quở đại chúng nên con mới thấy.
Đừng nghĩ các thiền sư ngày xưa hiểu thiền, hiểu đạo rồi không quý của Tam bảo, mà
các ngài quý trọng từng hạt thóc, hạt gạo, hạt cơm của Tam bảo.
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên ghi:
Thiền sư Khánh Chư đến pháp hội Qui Sơn làm tri khố, một hôm sư đang sàng gạo, Qui Sơn
bảo:
– Vật của thí chủ chớ để rơi rớt.
Sư thưa:
– Chẳng dám rơi rớt.
Qui Sơn lượm ngay trên đất một hạt gạo lên hỏi:
– Ông nói chẳng rơi rớt, đây là cái gì?
Sư im lặng, Qui Sơn lại bảo:
– Chớ xem thường một hạt gạo này, trăm ngàn hạt đều từ một hạt này sanh.
Ở đây ngầm hai ý, một là Hòa thượng Qui Sơn khai thị, thứ hai là phải tiết kiệm của
Tam bảo, tiết kiệm của tùng lâm. Chớ xem thường một hạt gạo này, trăm ngàn hạt đều từ
một hạt này sanh. Nghĩa là từ cái nhỏ nhiệm nhất, từ một niệm không ra gì nhưng từ nó phát sinh vô số các niệm khác. Cũng vậy, một giọt nước, một điều nhỏ nhặt nhưng sau
này không tu được, không thành tựu được là do cái ban đầu này.
Cho nên Hòa thượng Tôn sư hoặc Sư phụ Thường Chiếu đều rất kiệm phước. Hòa
Thượng đi trên đường thấy một cây đinh, Ngài cũng kêu lượm đem xuống kho. Hòa
thượng Thường Chiếu đi ngang chỗ nào thấy một chút rác, thôi ngài cũng cúi xuống
lượm bỏ thùng rác để tùng lâm được sạch sẽ. Các ngài kiệm phước lắm. Hòa thượng đi
xuống nhà khách, thấy nước nhỏ giọt giọt là ngài kêu tắt. Nước nhỏ từng giọt một thời
gian rồi cũng đầy tràn. Hòa thượng dạy phải tiết kiệm của Tam bảo, tiền này là của tín
thí hùn góp lại.
Sư thưa:
– Trăm ngàn hạt từ một hạt này sanh, chưa biết hạt này từ đâu sanh?
Quý thầy biết hạt này từ đâu sanh không? Thôi để quý thầy tự giải đáp.
Qui Sơn cười to ha hả, trở về phương trượng. Đến chiều Qui Sơn thượng đường bảo đại chúng:
– Trong gạo có sâu, các ngươi hãy tới xem.
Thiền thoại ghi:
“Nên khi xưa Hòa thượng Trạm Đường bình sanh lấy luật buộc ràng nơi thân. Tuy lãnh chúng
hoằng pháp, chẳng khác ở trong tăng chúng. Sáng sớm sau khi thức dậy, múc một ít nước rửa
mặt lại rửa chân, sau mới lấy nước tưới vào rau quả. Tích phước như thế chẳng dám phế bỏ.”
Hòa thượng Trạm Đường cơ phong cao vút, mà lúc ở trong chúng ngài lấy giới luật làm
trọng. Sau này, ngài lãnh chúng, hoằng pháp lợi sanh nhưng ngài sống cũng giống như
lúc còn ở trong chúng. Quý thầy thấy không, ra hoằng pháp lợi sanh rồi mà không dám
xài nhiều.
“Xỉa răng, nhổ nước phải cúi đầu, đem nước xuống chẳng nên phun nước nhằm người.
Chẳng nên hỉ mũi và khạc nhổ lớn tiếng. Chẳng được ở trong chùa, ở trên điện và tháp, cùng
nhà sạch, đất sạch, trong nước sạch hỉ mũi, khạc nhổ. Phải hỉ, khạc nơi chỗ khuất.”
Quý thầy mà khạc, hỉ lớn tiếng là Hòa thượng sai thị giả xuống nói liền. Các ngài học
luật rất kỹ.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Điện, Tháp là chỗ cúng dường tượng Phật, xá lợi. Nếu hỉ mũi, khạc nhổ thì thần Hộ Pháp
giận.”
Quý thầy ở trên chánh điện, hoặc sáng sớm đi ngang qua, quét sân quét rác gì đó, tự
nhiên có cục đờm nổi lên, chịu không nổi mình khạc trước chánh điện là bị tổn phước,
thần Hộ Pháp giận lắm. Nói chung, đất sạch trong già lam là không được khạc nhổ, tiểu
tiện.
“Nhà sạch, đất sạch, chỗ tọa thiền, kinh hành, nếu hỉ mũi, khạc nhổ thì mắc người chế giễu,
động tâm người khác.”
Quý thầy lớn tuổi hoặc lớn tuổi hạ mà gặp đâu cũng khạc nhổ chứng tỏ chưa từng học
oai nghi, tai hại lắm. Thứ nhất là tổn với già lam, Long thần Hộ pháp, kế là phá kiến
cho người sau mất tín tâm Tam bảo. Mấy vị nhỏ tuổi có học luật, học oai nghi họ cười
chế giễu: “Ông thầy lớn vào tùng lâm lâu mà không học luật, không học oai nghi phép
tắc gì hết.” Quý thầy học, phải nhớ kỹ để làm gương cho người sau.
“Nước sạch để cúng dường, để dùng cúng Phật, cúng Tăng. Hỉ mũi, khạc nhổ làm ô uế, hao tổn
phước đức, chuốc họa vào thân.”
Tổ Tuyên Luật Sư kể:
Xưa có một vị Tăng, ban đêm ngồi bên Tháp của Phật, tình cờ ông khởi niệm khinh
thường: “Trong luật dạy vậy chớ chắc gì có.” Vừa khởi niệm ông khạc cục đờm, vừa
khạc ra ông thấy dưới ánh đèn có một vị Hộ Pháp hiện thân lên đưa cánh tay hứng lấy
cục đờm của ông. Vị Tăng kinh ngạc và sợ hãi, từ đó trọn đời thúc liễm thân tâm, ẩn
náu chốn núi rừng sâu, không ra độ chúng.
Vị Tăng này có phước lực nên thần Hộ Pháp đưa tay đón lấy, còn mình không có phước
lực, thần Hộ Pháp không hiện ra thì mình dính nhân quả.
Hồi tôi làm nhà khách, có người dắt một đứa nhỏ đến trước chánh điện, ngay chỗ cây
tùng rồi xi cho bé đi cầu. Tôi lật đật đem cái xô nhựa nhỏ chạy ra kê bên dưới. Xong
đâu đó rồi tôi khuyên họ lên lễ Phật sám hối. Phải thật thành tâm không thôi là bị nhân
quả. Họ nói họ không biết, nhưng không biết thì bị cái trí si mê, không gặp được thiện
tri thức chỉ dạy.
Quý thầy nhớ dạy hàng cư sĩ bạch y, đến chùa thì phải biết những gì không được làm.
Ngày qua Canada, tôi cũng dạy một số cư sĩ, nhiều khi họ không biết, họ đi vòng vòng
rồi họ tiểu, nam cũng có, nữ cũng có. Tôi kêu lại, tôi nói tiểu như vậy thì bị… Từ đó về
sau họ rất sợ, đau tiểu thì phải vào nhà tiểu, không dám tiểu bậy ở trong già lam.
Ở trong già lam đất Phật đều có Long thần Hộ pháp. Những vị này toàn là những bậc
quyền thừa Bồ-tát thị hiện. Phật thọ ký các ngài sau này phải thủ hộ già lam, chứ
không thì già lam dễ gì yên ổn tu hành.
Kinh Tạp Bảo Tạng Viễn Nam có ghi:
Cõi trời Đao Lợi có một vị thiên nữ đầu đội tràng hoa, ánh sáng rực rỡ hơn các vị tiên
khác. Trời Đế Thích rất đỗi ngạc nhiên mới hỏi:
Ngươi tạo phước nghiệp gì,
Thân sáng như vàng ròng,
Sắc sáng như hoa sen,
Lại có oai đức lớn,
Thân chiếu sáng vi diệu,
Mặt tươi như hoa nở,
Sắc vàng chiếu rực rỡ,
Do làm gì mà được,
Xin hãy nói ta nghe.
Trong kinh diễn tả, phước nghiệp của chư thiên không phải ai cũng giống ai. Do ở dưới
này cúng dường, tạo phước nghiệp như thế nào mà thác sanh lên cung trời được thân
sắc tướng hơn những người khác. Thiên nữ đáp:
Xưa tôi lấy vòng hoa,
Cúng tháp Phật Ca-diếp,
Đời này sanh cõi trời,
Được công đức vượt trội,
Sinh ở nơi giữa trời,
Quả báo thân kim sắc.
Do nhân duyên đến trước tháp Phật Ca-diếp cúng dường chỉ một vòng hoa mà tái sanh
lên cung trời Đao Lợi được thân sắc thù thắng. Hôm nào, đi ngang qua tháp của Đức
Phật Thích-ca, quý thầy cúng dường vòng hoa hay cúng gì đi nữa mà tâm hoan hỉ, kính
tín thì được phước quả thù thắng, phải tin tưởng như thế.
Thích Đề Hoàn Nhơn nói bài kệ tán thán:
Lạ thay ruộng công đức,
Đã nhổ hết cỏ xấu,
Hạt giống nhỏ như vậy,
Được quả báo thù thắng.
Hạt giống rất nhỏ, có một vòng hoa mà được quả báo thù thắng.
Ai mà không cúng dường,
Cung kính thân vàng tía,
Ai không cúng dường Phật,
Ruộng công đức vi diệu,
Mắt ngài thấy tất cả,
Giống như hoa sen xanh,
Ngươi nên đến cúng dường,
Bậc vô thượng thứ nhất,
Tạo một chút công đức,
Được nhan sắc như vậy.
“Khi uống nước trà chẳng nên một tay tiếp người. Chẳng được hướng trước tháp xỉa răng và
trước vị Hòa thượng, vị thầy A-xà-lê.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nghĩa là tháp gồm có Thánh tượng, Hòa thượng, A-xà-lê, Trưởng lão, Thượng tọa và tôn
khách. Song khoảng giữa xỉa răng có uế khí. Vả lại chẳng có thể đối với người thường, huống
nữa là đối trước tháp Phật và Hòa thượng, thầy A-xà-lê ư?”
Tam Thiên Oai Nghi nói:
“Chẳng được hướng về Phật, cũng chớ xoay lưng về Phật. Chẳng được hướng về Hòa
thượng, các thầy A-xà-lê, cũng chớ xoay lưng về phía Hòa thượng.”

Biết Hòa thượng đi trước, hoặc đi đằng sau, cũng không được xoay lưng mà xỉa răng,
luật hay phép tắc oai nghi không cho phép.
“Phàm nghe tiếng chuông chắp tay thầm tưởng bài kệ rằng:
Nghe tiếng chuông, phiền não nhẹ,
Trí huệ lớn, Bồ-đề sanh,
Lìa địa ngục, khỏi hầm lửa,
Cầu thành Phật độ chúng sanh.
Án dà ra đế da tá ha.”
Tổ Tuyên Luật Sư dạy, nghe tiếng chuông là phiền não lắng nhẹ.
Sau này, đến phần Học Tập Kinh Điển, quý thầy nhớ không được đem kinh sách Phật
ra giỡn, nếu giỡn thì mất phước, sau khi chết đọa địa ngục, trong kinh dạy rất rõ. Sau
khi đọa địa ngục lên làm người ngu điếc không biết gì về Phật pháp, tái sanh ở phương
nào cũng vào trong nhà tà kiến.
Nghe tiếng chuông phiền não nhẹ là Tổ dạy, là lời của Phật mà tôi thấy có người đọc: Nghe
tiếng chuông phiền não nặng, rồi cười khà khà lên, rất tổn phước, kiếp sau ra đời
không bao giờ gặp chánh pháp. Đây là lời của Phật, lời của Tổ, từ kim khẩu của các
ngài chứng đắc tự thân chứ không phải là nói suông. Cho nên kinh điển mà đem ra
giỡn cười là phạm giới. Giới này nhớ giữ kỹ.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nghe tiếng chuông chắp tay là biểu thị thành kính, nghĩa là trong tâm đã thành, bên ngoài ắt
kính.”
Đây là Tổ Tuyên Luật Sư dạy. Nghe tiếng chuông chắp tay lại, đứng im chánh niệm,
phước lực nhiều lắm. Thỉnh chuông có phước lực rất nhiều, quý thầy học lần lần sẽ
thấy. Phàm nghe tiếng chuông phải chắp tay chí thành tụng kệ chú.
Xưa Hòa thượng Chí Công giúp đạo nhãn cho vua Lương Võ Đế. Vua thấy tướng khổ dưới địa
ngục thì hỏi Hòa thượng:
– Khổ ấy làm sao mà dứt được?
Hòa thượng Chí Công đáp:
– Chỉ nghe được tiếng chuông, khổ kia tạm dứt.
Đế Vương liền chiếu chỉ cả trong thiên hạ, các chùa, am gióng chuông tiếng ngân chậm rãi.
Dưới địa ngục họ đang tra tấn người nào đó mà nghe tiếng chuông thì sự tra tấn tạm
dừng lại. Cho nên thỉnh chuông tâm mình phải rất thành kính mới được.
Kinh Phú Pháp Tạng ghi:
“Tiếng ngân cho thật lâu mới thỉnh tiếng khác.”
Tiếng chuông ngân xa rồi dứt thì mới đánh tiếng thứ hai. Chứ đánh liên tiếp thì không
đúng.
Thiền thoại Tinh Vân ghi, Thiền sư Tinh Vân dạy chúng:
“Chuông là hiệu lệnh trong tùng lâm Phật giáo. Tiếng chuông buổi sáng là trước nhanh, sau
chậm để cảnh tỉnh đại chúng một đêm dài đã qua, chớ có buông lung mê ngủ. Tiếng chuông buổi
tối là trước chậm sau nhanh để nhắc nhở đại chúng tỉnh giác con đường tối tăm mê muội.”
Đây là lời Hòa thượng Tinh Vân dạy chúng ở Phật Quang Sơn.
Một hôm, Thiền sư Dịch Thượng xả thiền xong thì nghe tiếng chuông ngân nga trầm
bổng, ngài sai thị giả đến hỏi:
– Bữa nay ai thỉnh chuông mà sao khác hơn ngày thường?
Thị giả đáp:
– Bữa nay có một Sa-di từ xa đến tham học thỉnh tiếng chuông này.
Hòa thượng kêu vị Sa-di đó lên hỏi:
– Sáng nay ông dùng tâm nào thỉnh chuông?
Sa-di đáp:
– Bạch Thầy, không có tâm đặc biệt nào cả, con thỉnh chuông chỉ là biết thỉnh chuông
mà thôi.
Hòa thượng nói:
– Không phải, khi thỉnh chuông nhất định tâm ông nghĩ về một điều gì vì hôm nay ta
nghe âm thanh tiếng chuông vang dội rất là cao quý.
Sa-di suy nghĩ kỹ rồi thưa:
– Bạch Thầy, thật ra không có gì cả. Chỉ là khi con chưa xuất gia tham học, Thầy ở quê
thường dạy con khi thỉnh chuông phải nghĩ chuông tức là Phật, cần phải chí thành trai
giới, kính chuông như kính Phật, dùng như tâm thiền, như nhập định và dùng tâm lễ
bái mà thỉnh chuông.
Nghe xong Thiền sư dạy:
– Kể từ ngày hôm nay, ông nên luôn dùng tâm này để làm tất cả mọi việc.
Sa-di nghe như vậy, từ đó nuôi thành một thói quen, làm việc gì cũng luôn dùng tâm
thiền, tâm kính cẩn. Về sau, vị Sa-di này nối pháp cho Hòa thượng. Ngài là vị Thiền sư
nổi tiếng dùng tâm Phật thỉnh chuông, kính chuông như kính Phật.
Quý thầy làm việc cũng vậy, chẻ củi hay làm bất cứ việc gì cũng dùng tâm kính cẩn,
chánh niệm thu thúc thì việc nào cũng là việc Phật, việc nào cũng là việc Pháp hết.
Kinh Tăng Nhất A Hàm ghi:
“Hoặc khi thỉnh chuông, nguyện tất cả khổ trong đường ác đều được đình dứt. Hoặc ai nghe
tiếng chuông mà khen ngợi bài kệ trừ được năm trăm ức kiếp tội nặng trong sanh tử.”
Nghĩa là nghe tiếng chuông, mình ca ngợi, tán thán.
Tổ Tuyên Luật Sư dạy:
“Nói nghe tiếng chuông đây là mượn sự để mà hiển bày lý.”
Oai Nghiêm Sớ nói:
“Nghĩa lớn của Bồ-tát cần yếu là ở trên sự mà tột lý. Sự lý viên dung mới thâm nhập vào sự sự
vô ngại pháp giới.”
Các ngài dùng sự để hiển bày cái lý tuyệt đối. Chẳng hạn nói diệt trừ năm trăm ức kiếp
tội nặng sanh tử, nghĩa là trong giờ phút này, tâm thức mà rung động thì chuyển được
nghiệp.
Kinh Tạp Thí Dụ ghi:
Văn chung ngọa bất khởi,
Hộ pháp thiện thần sân,
Hiện tại duyên phước bạc,
Lai thế thọ xà thân.
Có nghĩa là:
Nghe chuông nằm chẳng dậy,
Hộ pháp thiện thần sân,
Hiện đời phước quá ít,
Đời sau kiếp mãng xà.
Chúng tôi thuộc nằm lòng bài kệ này, sợ lắm! Làm việc nhiều khi mệt, nằm mà nghe
tiếng chuông là bật dậy liền. Mệt mỏi quá, chịu không nổi thì cũng phải ráng ngồi cỡ
một tiếng hoặc dứt tiếng chuông mới nằm. Không phải trực nhà, nghe tiếng chuông rồi
mình nằm luôn. Nghe tiếng chuông nằm chẳng dậy thì Hộ pháp thiện thần sân. Các vị
Hộ pháp ở trong chùa, thấy người tu không dậy họ bực lắm, chịu không được. Nhiều
khi kiếp sau mình thành mãng xà, rất là sợ!
Phải tin lời của Phật, đây là lời từ kim khẩu Ngài nói ra. Các ngài nói đều ứng tác từ nơi
tâm Phật, thấy bằng con mắt Phật, cho nên các ngài nói đâu là có đó.
“Nghe tiếng chuông phiền não nhẹ… Tông chỉ quán nói, phiền não là pháp tối tăm, là não loạn
tâm thần chẳng có thể nghĩ phát Bồ-đề. Nay được nghe tiếng chuông, tụng kệ, thiện pháp tăng
trưởng thù thắng nên được nhẹ.”
Đây là theo tinh thần của Ngài Trí Khải Đại Sư. Ngài dạy: Do mình bị phiền não che lấp,
nghe tiếng chuông tâm thức rung động, thiện pháp tăng trưởng thì tức khắc được nhẹ
nhàng và người mất cũng được siêu thoát.
“Trí huệ lớn, Bồ-đề sanh… Thấu tột lý gọi là trí, phân biệt gọi là huệ, Bồ-đề gọi là giác thể,
nhân bị vô minh che lấp mà thành bất giác. Nay do phiền não nhẹ sạch, trí huệ tăng trưởng mà
Bồ-đề lớn.”“Nguyện thành Phật độ chúng sanh… Kinh A-hàm nói, chúng sanh nếu chẳng phát nguyện, trọn
chẳng có thể thành Phật đạo được.”
Câu kệ thứ tư phát nguyện thành Phật. Làm việc gì trong đại chúng mình đều phải phát
nguyện, phát nguyện thì mới thành tựu.
Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ nói:
“Phát đại nguyện đó là nhân của vạn hạnh hay trưởng dưỡng lòng từ bi, chẳng đoạn mất hạt
giống Phật. Đại sự thành tựu, việc làm trọn nên thành đạo làm lợi ích chúng sanh đều do nguyện
lớn.”
Phát đại nguyện để thành tựu quả vị Phật, đó là nhân của vạn hạnh hay trưởng dưỡng
lòng từ bi.
“Thế nên có hạnh mà không có nguyện, hạnh ấy ắt trơ trọi.”
Chẳng hạn mình lập hạnh bố thí, hạnh cúng dường hay hạnh làm việc cho đại chúng
mà không có nguyện lực đi theo thì không trọn vẹn.
“Có nguyện mà không có hạnh, nguyện ấy trở thành nguyện suông.”
Chẳng hạn, phát nguyện từ đây trở đi con nhẫn nhục, nhờ nhẫn nhục này con thành
Phật, mà ai nói gì quý thầy chửi lại thì nguyện đó là nguyện suông. Hoặc phát nguyện
thành tựu quả vị Phật, phải phát tâm bố thí cúng dường, mà ai đến xin cuốn sách quý
thầy cũng không cho thì nguyện ấy không thành tựu.
“Hạnh nguyện theo nhau, mình và người đều được lợi ích thì đúng.”
Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Chẳng phát đại nguyện là việc làm của ma. Ưa ở nơi lặng lẽ đoạn trừ phiền não là việc làm
của ma. Dứt hẳn sanh tử là việc làm của ma. Bỏ hạnh Bồ-tát là việc làm của ma. Chẳng giáo
hóa chúng sanh là việc làm của ma.”
Kinh Hoa Nghiêm tiêu biểu cho Pháp giới Hoa tạng, từ nơi tự tánh của Bát-nhã. Chẳng
phát đại nguyện là việc làm của ma, làm tất cả các việc mà không phát nguyện dễ sinh
chấp ngã. Chẳng hạn, mình cho huynh đệ một cuốn sách, không nghĩ ngợi gì hết.
Nhưng cái niệm sâu kín quý thầy không thấy được. Lúc nào đó, người huynh đệ này họ
trở chứng, mình nói, tôi cho cuốn sách mà vậy đó. Bởi vì trong lúc cho, niềm thao thức
của mình không có.
Đã phát nguyện cầu phúc lực để thành tựu quả vị Phật, thì dù người làm cho mình đau
khổ mấy cũng bỏ qua được. Vì nguyện lực lớn lao, nguyện lực đi trước, còn mục đích
bố thí cúng dường chỉ là để trợ duyên cho thành tựu quả vị Phật, chứ không phải cầu
sanh thiên hay cái gì khác.
Chẳng hạn lúc nấu cơm, mình nguyện nhờ phước duyên trợ lực này, kiếp sau thành
một vị đại trí huệ như ngài Xá-lợi-phất hay Bồ-tát Long Thọ… chắc chắn được thành
tựu, bởi vì hạnh và nguyện đi đôi, thực sự mình có nấu cơm cho đại chúng. Hoặc khi
chẻ củi, mình phát nguyện kiếp sau có tài biện luận để dìu dắt những người ngoại đạo
tà kiến. Đang chẻ củi mà phát nguyện, hạnh và nguyện đi đôi thì sẽ thành tựu.
Ưa ở nơi lặng lẽ đoạn trừ phiền não là việc làm của ma. Dứt hẳn sanh tử là việc làm của
ma. Tinh thần Pháp giới Hoa tạng luôn luôn khuyến khích mình đi về con đường Bồ-tát
đạo, chứ không cho đi vào con đường khác.
Thiền sư Man An nói:
“Nếu hành giả muốn nhanh chóng liễu ngộ được chân lý và giải thoát khỏi mọi phiền não không
gì hơn là quán tâm trong mỗi hành động.”
Muốn giải thoát và ngộ được chân lý giải thoát sâu kín, không gì hơn là làm việc gì cũng
đều rõ tâm thức của mình.
“Cổ đức dạy rằng, kẻ đại trí cần thâm nhập đến chỗ vi diệu của đạo huyền từ chỗ lao xao biến
động của thế giới trần tục.”
Có nghĩa là phải phát đại nguyện, và hạnh nguyện phải đi đôi.
Luận Đại Trí Độ nói:
“Làm phước mà không có nguyện không thể dựng lập được gì.”
Làm tất cả việc nặng nhọc cho đại chúng, phải có nguyện lực đi theo thì làm mới không
biết mệt.
“Nguyện là thầy dẫn đường có thể đạt được thành tựu. Lại nói, nếu có thể phát tâm một lần nói
rằng: Nguyện tôi sẽ thành Phật diệt trừ đau khổ cho tất cả chúng sanh. Dù chưa dứt phiền não,
chưa làm được việc khó, nhưng do tâm nguyện mạnh mẽ nên hơn tất cả chúng sanh.”
Hôm nào lên chánh điện phát nguyện thành Phật để độ tất cả chúng sanh, tuy mình chỉ
là phàm phu chay nhưng cũng thành tựu. Dù chưa dứt phiền não, chưa làm gì hết
nhưng hơn tất cả chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề này do năng lực phát nguyện của
mình.
Luận Đại Trang Nghiêm nói:
“Thanh tịnh cõi Phật là việc lớn. Thực hành công đức của một hạnh không thể thành tựu, cần
phải có nguyện lực. Ví như trâu có sức kéo xe nhưng cần phải có người đánh xe mới có thể đi
đến nơi. Làm thanh tịnh cõi Phật do nguyện dẫn đến thành tựu. Bởi nguyện lực nên phước đức
tăng trưởng. Vì chẳng mất chẳng hoại nên thường thấy Phật.”
Ví như trâu có sức kéo xe nhưng cần phải có người đánh xe mới có thể đi đến nơi. Cho dù trâu
có mạnh cách mấy mà không có người điều khiển cũng không được. Dù cho cái hạnh
tốt đến đâu mà không có nguyện lực đi theo thì quả vị Phật cũng không thành tựu.
Trong vô lượng kiếp hành Bồ-tát đạo, đức Phật đều phát nguyện thành tựu quả vị Phật
để giáo hóa chúng sanh. Chỉ một nguyện lực thành tựu quả vị Phật, ngoài ra không quả
vị nào khác. Bởi nguyện lực nên phước đức tăng trưởng, làm việc cũng hưng phấn.
Nguyện lực này luôn đi theo mình, học Kinh sách cũng phải phát nguyện lực: “Tôi học
bài Kinh này không phải để cãi lại huynh đệ hay để hơn thua, mà để mai kia tôi thành
tựu quả vị Phật giáo hóa chúng sanh, giáo hóa những người đau khổ” thì phước đức
tăng trưởng.
“Chẳng nên cười nhiều hoặc cười to cùng ợ ngáp, phải lấy tay áo che miệng.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Cười nhiều cười to chẳng phải si tức là cuồng, làm mất chánh niệm, phạm phi oai nghi, cùng ợ
ngáp là cái tướng lười biếng, nghĩa là thần khí tản mác, chìm mất cái ý chí.”
Thầy chúng tôi nói, ngáp mà há miệng ra là tướng lười biếng. Người tu ngáp phải ngậm
lại, ém, nuốt xuống chớ không há miệng ngáp. Người ngáp lớn tiếng, quý Thầy lớn nhìn
thấy là biết người này làm không được việc. Ợ ngáp như vậy thần khí nó tản hết không
còn tụ nữa. Khí tản là dìm mất ý chí. Tuy mình nói tinh-khí-thần nhưng khí làm chủ,
không thở là chết liền. Khí tụ lại thì thấy tướng rất hùng dũng, như các vị võ tướng
ngày xưa. Người tu còn hơn cả võ tướng.
“Xưa Thiền sư Pháp Vân bình thường ở chỗ dừng làm, nhìn thẳng chẳng nháy mắt. Ba mươi
năm đến chưa từng khinh phát một tiếng cười.”
Coi trong sử, thấy mình tu không bằng người xưa. Các ngài nói chuyện là nhìn thẳng
không nháy mắt. Ba mươi năm chưa từng khinh phát một tiếng cười. Nghe vậy, về tăng
đường quý thầy im hết khỏi cười luôn. Cần cười thì cười chứ, nhưng đừng cười lớn,
đừng cười như si, như cuồng.
“Phàm chỗ ở thấy có Thánh tượng liền đứng chẳng có ngồi.”
Kinh Tỳ Ni Mẫu nói:
“Có hai thứ hơi, một là hơi trên, hai là hơi dưới. Hơi trên khi muốn ra đừng ngay trước
người há miệng cho ra. Hơi dưới khi muốn ra chớ cho ra trong chúng.”
Thở ra giống như hoa sen thì được, còn đằng này mình thở ra miệng, người ta chạy
hết. Đừng thở ra ngay trước mặt người ta, phải xoay mặt đến chỗ không người.
Ngày xưa mỗi lần vào thiền đường, tôi để ý một thầy ngồi bồ đoàn phía trước, mỗi lần
thầy nhổm lên khỏi bồ đoàn là vị ngồi sau né qua một bên. Lần sau tôi đổi chỗ ngồi
thử, thầy phía trước vừa nhổm lên là hơi dưới ra dính vô mặt tụi tôi hết. Tổn phước
lắm. Quý thầy coi trong Kỷ Yếu 5 Năm, thầy Thông Quang viết bài “Một tiếng rắm trong
thiền đường”, đó là câu chuyện này.
Tôi có nghe một thầy ở nhà khách kể lại, thầy lên thiền đường nhà khách có những lúc
phải đeo khẩu trang, vì một số vị trong đó, buổi chiều uống sữa đậu nành hay ăn cái gì
không biết mà hạ phong rất nhiều, tự tiện thoải mái luôn. Bởi vì thọ cụ túc giới quá sớm
mà chưa từng học oai nghi.
“Cho nên hơi dưới ra chẳng nên ở trong chúng mà ra. Phải tìm phương chước ra ngoài tới
chỗ không có ai thì mới cho ra. Vậy sau mới vào, đừng để chúng chê ghét và nhờm gớm.”
Nhất là trong thiền đường, có người đánh rắm rồi cười ha hả nữa, tổn phước lắm chớ
không phải chuyện đơn giản.
“Khi vào điện, tháp, chẳng nên cho ra hơi dưới, nhất là trong chánh điện.”
Ráng nín, nếu chịu không nổi quý thầy xá một cái đi ra.

“Chẳng những điện, tháp mà trước vị Hòa thượng, vị Đại đức, vị Thượng tọa cũng chẳng nên
cho ra hơi dưới có tiếng. Bằng trong ruột có bệnh gắt phải ra ngoài cho ra, đừng để người
sanh tâm nhờm gớm.”
Học oai nghi mình thấy hay từng chút, từng chút vậy. Nếu chịu khó thực tập, học một
thời gian thấm rồi, mình giữ được.
Đại Luật nói:
“Bằng hơi dưới mà gấp rút cũng phải ngăn lại. Bằng nín không được phải chực bên đường
dưới gió cho ra chứ đừng có đứng trước gió.”
Mình tránh xa rồi đánh rắm, gió nó bay vô mặt người ta cũng vậy thôi, cho nên đừng
đứng trước gió. Học kỷ luật thấy rất hay. Giữ đúng oai nghi phép tắc thì có phước chứ
không bị tổn.
“Hoặc ở trong nhà thiền khi nhảy mũi chẳng được tự do nhảy mũi lớn tiếng. Hoặc khi sắp
nhảy mũi phải nín, lấy tay đè sống mũi mà nhảy, đừng cho mũi dãi tuôn ra.”
Từng chút, từng chút vậy đó.
“Chẳng được đi mau. Chẳng được đem đèn bàn Phật riêng để mình dùng. Hoặc thắp đèn lúc
đương cháy phải lấy lồng chụp lại đừng để trùng vướng ngã vào.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Phàm chỗ động tịnh phải phòng hộ oai nghi, lúc giở chân phải coi dưới đất chớ hại trùng kiến.
Người xưa nói, đi nhanh thì bước đi không tốt, oai nghi trọn chẳng trông lại, thức giả ở hai bên
nhìn xem làm sanh sợ hãi.”
Tổ Tuyên Luật Sư dạy:
“Đèn Phật tức là vật Phật trong giới cấm thứ hai. Đã là vật Phật, chẳng được dùng riêng, nếu
lìa trước Phật tức thành nghiệp trộm.”
Tổ Tuyên Luật Sư dẫn chứng trong Trí Độ Luận nói:
“Trộm dầu trước đèn Phật phải đọa trong địa ngục hắc ám, sau làm người mù. Xưa A-na-luậtđà thời quá khứ trộm đồ cúng khí cụ. Trước Phật, nhân đèn mờ tối, trước ánh đèn phất phơ thấy
Phật oai nghiêm tướng hảo, tâm trộm liền dứt, sám hối mà đi. Do công đức này cảm được quả
báo được thiên nhãn đệ nhất.”
Tôi tra cứu rất nhiều nhưng không thấy tích này. Đọc quyển Sa Di Học Xứ, Tổ Tuyên
Luật Sư trích đoạn này, dịch ra tôi mới biết. Trong thời quá khứ, tôn giả A-na-luật vào
chánh điện trộm đồ cúng khí cụ. Trước Phật, nhân đèn mờ tối, Phật hiện ra tướng hảo
oai nghi rực rỡ, ngài sụp xuống sám hối, tâm trộm liền dứt. Do công đức sám hối này,
vô lượng kiếp về sau ngài ra đời gặp Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Bị Phật quở vì ngủ gục
trong lúc Phật thuyết pháp, từ đó ngài thệ nguyện thức luôn không ngủ nữa, cho nên bị
mù mắt. Được Phật dạy phương pháp Kim Cang chiếu minh tam muội, ngài tu một thời
gian được thiên nhãn đệ nhất.
Kinh Lục Độ Tập quyển Sáu có ghi:
Xưa có một vị Sa-môn tu hành rất kỹ, giữ giới hạnh rất tinh nghiêm mà không thông
văn học. Một số người cho ngài là không có trí, nghiêng về kính lễ, thiếu trước hụt sau,
đi xin dầu mè để cúng dường Phật.
Một vị Tỳ-kheo cúi đầu lễ dưới chân Phật thưa:
– Bạch Đức Thế Tôn, vị Tỳ-kheo già đó tuy ít trí huệ nhưng giới đủ hạnh cao, thắp đèn
cúng dường Phật, về sau được phước đức như thế nào?
Phật Ca-diếp nói:
– Lành thay lời hỏi của ông, vị Tỳ-kheo già đó trải qua vô số kiếp sẽ thành bậc Như Lai
Vô Sở Chánh Đẳng Chánh Giác, cổ có hai vầng hào quang, sẽ dắt dẫn ba cõi chúng
sanh được độ không kể xiết, Phật hiệu là Định Oai Như Lai.
Vị Tỳ-kheo này không biết kinh điển nhiều, không giảng pháp nhưng giới hạnh tinh
nghiêm, nhờ đi xin dầu thắp trước tượng Phật mà được thành tựu quả vị Phật.
Kinh Tạp Bảo Tạng quyển Năm có ghi: Thiên Đế Thích dùng kệ hỏi một vị thiên tử:
Xưa ngươi tạo nghiệp gì
Thân như khối vàng ròng
Lại có đại oai đức
Dung mạo thật quang minh?
Thiên tử đáp:
Bậc cứu tế tam giới,
Đèn lớn soi ba cõi,
Trí tâm mắt Phật quán,
Bậc tối thắng của pháp,
Vì ngài đốt đèn sáng,
Đèn sáng diệt tối tăm.
Đèn Phật trừ các ác,
Thấy đèn như trời sáng,
Sinh lòng tin chân thật,
Thấy đèn sáng rực rỡ,
Vui mừng đảnh lễ Phật.
Vị thiên tử có thân sắc vàng ròng nhờ cúng dầu thắp đèn trước Phật. Không có tiền thì
thôi chớ đừng trộm đèn dầu cúng Phật, sẽ bị quả báo xấu đến với mình.
“Bông cúng Phật lựa bông nở tròn đủ, tươi đẹp, chẳng được ngửi trước. Bỏ bông héo phải
cúng bông tươi. Bông héo chẳng nên bỏ dưới đất giẫm đạp, phải để chỗ vắng.”
Tổ Tuyên Luật Sư dạy là bông nở tròn thì tinh thần no đủ, sắc diện rõ ràng. Chẳng
được ngửi trước là biểu thị cái chí thành kính. Mua bông về cúng Phật, không được
ngửi trước.

Kinh Yếu Dụng Tối có ghi:
“Mũi ngửi vị hương, do bớt cái mùi thơm của hương, không có phước đức, mắc đọa trong địa
ngục Ba-đầu-ma đời đời đổ mũi, không biết mùi hương.”
Chư Kinh Tập Yếu có ghi:
“Tán hoa cúng Phật chẳng được giẫm đạp. Phật bảo Văn Thù: Hoa này nếu bốn chúng hay kính
tín tu hành, nên phải sáng sớm thức dậy súc miệng tắm rửa sạch sẽ, niệm công đức Phật, cung
kính hoa này chẳng lấy chân giẫm đạp, chẳng nhảy trên hoa, như pháp chấp thủ an trí tịnh khí,
trị mọi thứ bệnh.”
Tán hoa cúng Phật phải thành tâm để cúng. Hoa đó không được bỏ thùng rác mà phải
bỏ dưới gốc cây, quý vị làm hương đăng chắc biết rồi.
“Kinh nói nếu có chúng sanh phụng thí hương hoa được mười thứ công đức.”
Tức là cung kính cúng dường Phật hương hoa. Bây giờ Phật nhập Niết-bàn rồi thì còn
tượng Phật. Cúng dường hoa được mười thứ công đức:
1- Chỗ ở như hoa.
Sanh nơi nào cũng rực rỡ hoa thơm cỏ lạ.
2- Thân không hôi thúi.
Ai nói không có tiền mua hoa? Bữa nào thấy thầy hương đăng cắm hoa, mình tùy hỉ
theo là coi như có tiền mua hoa rồi.
3- Phước hương, giới hương biến khắp các phương.
4- Tùy chỗ sanh, các tỷ căn chẳng hoại.
5- Siêu việt thế gian, đại chúng qui ngưỡng.
Sanh ra được thân tướng sáng rực, mọi người qui ngưỡng, kính tín.
6- Thân thường thơm mùi thanh khiết.
7- Vui thích chánh pháp, thọ trì, đọc tụng.
Nghĩa là thích chánh pháp, thích Kinh điển Đại thừa nhờ cúng dường hoa cho Phật.
Người tu sĩ hay sợ làm phước nhiều rồi quên tu, nhưng thật ra mình biết Phật pháp,
biết nhân quả rồi thì làm phước lực thù thắng hơn cư sĩ. Bởi vì mình biết làm gì thì được
phước gì, phải tu tập như thế nào, điều gì nên tránh, nên bỏ…
8- Đầy đủ đại phước báu.
9- Mạng chung sanh thiên.
10- Mau chứng Niết-bàn.
Ấy gọi là phụng thí hương hoa được mười thứ công đức.
“Chẳng được nghe thầy kêu không đáp. Phàm nghe kêu đều phải đáp câu ‘Mô Phật’ thế lời.
Phàm lượm của rơi liền phải đưa cho thầy tri sự cất.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Phải niệm Phật mà ứng chính là chẳng quên gốc.”
Chẳng hạn, thầy Trụ trì hay bất cứ thầy nào kêu mình, mình không “Dạ” như người thế
tục mà phải đáp “Mô Phật”. Tại sao? Bởi vì khi “Mô Phật” thì hạt giống Phật đó ghi
trong tàng thức của mình.
“Lại khác, đối với người tục nghĩa là cha mẹ sanh thân chẳng có thể khiến ta ra khỏi biển khổ
sanh tử. Chỉ có Đức Phật đại từ bi độ cho ta xuất gia được thành Tăng tướng. Cho nên thời thời
khắc cốt ghi tâm, niệm ân đức của Phật.”
Hằng ngày quý thầy Mô Phật biết bao nhiêu lần, ăn cơm niệm Phật, tụng kinh, xả thiền,
tất cả mọi nơi, mọi thời đều nhớ Phật, tưởng niệm công đức của Phật. Thầy lớn kêu
mình cũng Mô Phật. Hạt giống này đều ghi vào tàng thức, mai kia sanh ra đời tự nhiên
gặp bậc thiện tri thức dẫn dắt.
Trong Đại Trang Nghiêm Kinh Luận quyển Mười có ghi:
Thuở xưa, có một vị Bà-la-môn dòng Phạm Chí đến Tinh xá Kỳ Hoàn xin Phật xuất gia,
nhưng hôm đó Phật đi vắng. Ông nghĩ Phật đi vắng thì chỉ có đại tướng chánh pháp là
ngài Xá-lợi-phất mới có đủ năng lực độ ông xuất gia, nên ông đến xin xuất gia với tôn
giả.
Tôn giả Xá-lợi-phất nhập định để xem ông có căn lành không. Quán sát một đời không
thấy, nhập định nữa quán trăm ngàn đời cũng không thấy ông có gieo chút căn lành
nào hết. Ông buồn khóc đến xin ngài Mục-kiền-liên. Ngài nhập định cũng không thấy
ông có căn lành gì hết. Cuối cùng ông đến xin ngài A-nan. Ngài A-nan nói hai vị kia là
đàn anh của tôi, là thầy thuốc giỏi mà người ta bỏ thì tôi làm được gì, thôi ông về đi.
Ông buồn quá, ra đến cổng ông nói bài kệ:
Giống như nước trong sạch,
Tất cả đều uống được.
Dù cho chim Đà-la,
Cũng đều được xuất gia.
Trong Phật pháp như thế,
Không chịu thâu nhận tôi.
Tôi không được toại nguyện,
Vậy còn sống làm gì?
Ông cầm dao định đâm vào tim để tự tử thì Phật xuất hiện, ngài nói:
– Này Xá-lợi-phất, vì sao ông không cho ông Bà-la-môn này xuất gia?
Xá-lợi-phất thưa:
– Bạch Đức Thế Tôn, con quán sát nhân duyên một trăm ngàn kiếp về trước mà không
thấy ông có căn lành nào hết.
Phật dạy:

– Này Xá-lợi-phất, thầy chớ nói như thế.
Rồi Thế Tôn nói bài kệ:
Ta thấy các căn lành,
Thật rất là nhỏ nhiệm,
Như cát đá trong núi,
Nung chảy cho ra vàng.
Thiền định và trí huệ,
Như ống bể lò rèn,
Ta dùng công đức thổi,
Ắt sanh ra vàng ròng.
Người này cũng như vậy,
Lành nhỏ như vàng kia.
Lúc này Tôn giả Xá-lợi-phất sửa y, bạch xin Phật cho biết nguyên nhân Phật thấy như
thế nào. Tôn giả nói kệ:
Bậc hơn hết trong luận,
Cúi xin nói con nghe,
Ngọn đèn trí huệ lớn,
Xua tan các bóng tối.
Trong bao lâu người kia,
Trồng được căn lành này,
Làm được ruộng phước nào,
Nẩy mầm rất mau chóng?
Phật bảo, nhân này rất nhỏ nhiệm, không phải cảnh giới mà hàng Bích Chi Phật có thể
thấy được, huống chi các ông là A-la-hán. Chỉ có Như Lai mới thấy được.
Rồi Phật kể, thuở xưa vị Bà-la-môn này là một người nghèo khổ vào núi đốn củi. Bị cọp
rượt, ông sợ quá niệm ba lần “Mô Phật”. Tiếng Mô Phật đó đã ghi trong chủng tử tàng
thức. Phật nói, tôn giả Xá-lợi-phất chỉ nhập đại định tới một trăm ngàn kiếp là dừng nên
không thấy. Cái nhân nhỏ nhiệm này hàng Bích Chi Phật cũng không thấy được huống
chi là A-la-hán. Phật quán tiếp kiếp kế nữa, thì thấy ông này nhờ niệm Phật mà được
nhân giải thoát. Rồi Phật nói kệ:
Chỉ thấy họ xưng Phật,
Cho đó là nhỏ nhiệm,
Nhờ đó giúp mé khổ,
Như thế là tốt lành.
Dốc lòng qui mạng Phật,
Chắc chắn được giải thoát,
Được quả giống như vậy,
Thật không có ai bằng.
Phật độ cho vị Bà-la-môn đó xuất gia, đích thân ngài giáo hóa, đúng ba tháng sau
người này khai ngộ, chứng quả vị A-la-hán.
Vị Bà-la-môn này một trăm ngàn kiếp không gieo căn lành gì khác, chỉ nhờ ba câu niệm
Phật mà được nhân giải thoát. Huống chi bây giờ quý thầy chẻ củi, hành đường, trị
nhật đều niệm Phật, nhớ công đức Phật suốt ngày thì chắc chắn quả vị Phật sẽ thành
tựu.
“Chẳng được ba y khiếm thiếu. Chẳng nên sắm nhiều y phục, bằng có dư nên cho. Chẳng
được sắm dây lưng tốt đẹp và đồ chơi, trang điểm giống như giang hồ làm trò cười cho người
thức giả. Chẳng được mặc đồ ngũ sắc và y phục giống người thế tục. Chẳng được tay không
sạch mà đắp y.”
Đây là nói về hàng Tỳ-kheo, ba y là y ngũ điều, thất điều, cửu điều. Chẳng nên sắm
nhiều y phục, có ba bộ là vừa rồi, có nhiều hơn thì nên san sẻ cho những người
khác. Chẳng được sắm dây lưng tốt đẹp và đồ chơi, trang điểm giống như giang hồ. Quý thầy
có dịp đi thành phố sẽ thấy, có những thầy mặc đồ giống như cư sĩ vậy.
Kinh Pháp Diệt Tận có ghi lời Phật:
“Sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, khi giáo pháp bắt đầu suy yếu, trong đời ngũ trược ác thế ma
đạo sẽ rất thịnh hành. Ma quỷ biến thành Sa-môn, nó sẽ xuyên tạc và phá hoại giáo pháp của ta,
nó mặc y phục của hàng cư sĩ, ưa thích y phục đẹp đẽ và giới y thì may bằng loại vải có màu sặc
sỡ.”
Tôi làm nhà khách tôi thấy, có những thầy mặc áo màu trắng như cư sĩ, hoặc áo màu
sặc sỡ và mỏng, thấy đồ bên trong hết. Là hiện tượng đã có rồi!
“Nó uống rượu, ăn thịt, giết hại các sinh vật khác, hoặc tham đắm thọ hưởng cao lương mỹ vị.
Nó không có lòng từ bi và thường mang lòng sân hận, đố kỵ lẫn nhau.”
Bởi vì không có tu! Sống trong chúng mà có một niệm sân hận hoặc đố kỵ với huynh đệ
thì biết chính là ma. Một tâm niệm xấu ác, tật đố, rồi ích kỷ, đó là ma, phải chuyển hóa
liền.
“Phàm lên chánh điện phải buộc ống quần, chẳng được lung ý tự tiện.”
Không biết hình thức này, bên Ấn Độ thời Đức Phật có chưa hay qua Trung Hoa mới có.
Nên học đoạn này cho kỹ.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nghĩa là chỗ đại điện chính là Thánh Hiền vân tập, phải chỉnh y thúc đáy mà lên. Phải buộc là
sợ hạ thân có vật dơ rơi sót trên đất.”
Tổ Tuyên Luật Sư dạy, chỗ đại điện chính là Thánh Hiền vân tập. Mắt thường chỉ thấy
có chư tăng không thôi nhưng mà có Long thần, Hộ pháp, Bồ-tát rất nhiều.
“Phàm chỗ có Phật, Bồ-tát đều nên buộc ống quần, nếu phóng ý tự tiện thì không có tâm kinh
sợ. Song Tây quốc có cái quần không khố nên quần trở thành nội y. Nay văn nói ra chính là
thuận nghi đất này.”
Nay văn nói ra chính là thuận nghi đất này, có nghĩa là không phải Ấn Độ mà qua Trung
Hoa mới có hình thức này. Mặc cái y như quý sư bên Nam tông, nếu lên chánh điện
buộc ống quần thì làm sao lạy.

Nhưng trong Sa Di Học Xứ có một đoạn dẫn chứng Kinh A Hàm:
“Kinh A Hàm nói: Một Tỳ-kheo chẳng mặc y hạ, âm mao rơi xuống đất, thần Hộ pháp dời đi
ngoài bốn mươi dặm, có thể chẳng thận trọng ư?”
Luật nói trong Kinh A Hàm nhưng lục tìm trong Kinh A Hàm thì không thấy.
Ngày xưa tôi làm hương đăng thiền đường, cứ ba ngày tôi hút bụi một lần, xong rồi xổ
ra âm mao rất nhiều, quý thầy phải cẩn thận.
“Chẳng được đi chơi, chẳng được nói nhiều.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Chẳng được đi chơi là sợ ngăn ngại thiền định và tụng kinh. Người xưa trải qua năm tháng rất
quý thời gian. Người xuất gia thọ của đàn việt cúng dường nên phải nỗ lực hành đạo, thời khắc
miên mật, chẳng có thể phóng túng, há có thể để ngày tháng trôi suông ư? Phật pháp như biển
lớn, học một phần có một phần thọ dụng.”
Chư Tổ khuyến khích và răn nhắc mình, thời gian trôi qua rất nhanh mà Phật pháp thì
như biển lớn. Có những lúc, mình đọc kinh điển thấy không nhớ gì nhưng nó đều ghi
trong tàng thức. Chúng tôi làm nhà khách, có những mẩu chuyện tự nhiên mình nhớ rồi
giải thích rõ ràng cho người thức giả. Không phải cái gì cũng nói tôi tu, mà phải có kiến
giải chân chánh. Trích dẫn ở đâu, xuất phát từ nơi nào khách họ mới tin. Cho nên học
một phần thì có một phần thọ dụng.
“Huống nữa Sa-di còn là bậc sơ cơ, đạo nghiệp chưa thành, ngày tháng như nước chảy, như vậy
có công phu đi chơi ư?”
Tổ dạy rất là rõ.
“Chẳng được ngồi ngó đại chúng làm việc nhọc mà trốn lánh trộm yên. Phật dạy công việc
của chúng tăng phải tận lực mà làm. Cho nên chư Phật, Bồ-tát từ ở trong cửa hạnh mà ra.
Song chỗ ăn đã chia đều, chỗ làm cũng phải chia đều.”
Quý Thầy lớn kể lại, Hòa thượng Tôn sư không phải chỉ học rồi tu, rồi giáo hóa, mà lúc
lên Chân Không ngài phải bẫy đá, rồi bứng những bụi tre rất cực. Hòa thượng Thường
Chiếu cũng làm việc rất nhiều. Còn có những vị thầy, đời này thấy không làm nhiều
nhưng biết đâu trong thời quá khứ các ngài đã làm rồi. Chẳng hạn như thầy Trụ trì Trúc
Lâm, chỗ nào xây dựng đâu đó hết rồi thỉnh thầy về Trụ trì, mà Thầy đi đến đâu chúng
yên ở đó, chứng tỏ thời quá khứ Thầy đã từng xây dựng, từng làm rồi. Còn đời này thì
chưa có gì mình phải tận lực mà làm.
Song chỗ ăn đã chia đều, chỗ làm cũng phải chia đều. Lên bàn thấy bốn miếng đậu hủ chia
đều bốn người, có mình nữa mà. Chẳng lẽ mình trộm, trốn không chịu làm?
Cho nên Thiền sư Bách Trượng lúc bảy, tám mươi tuổi vẫn làm việc. Các đệ tử lớn
thương ngài, đem giấu dụng cụ không cho làm thì hôm đó ngài nhịn đói. Ngài nói một
câu nổi tiếng trong tùng lâm: “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”, tức là một ngày
không làm một ngày không ăn.
“Ngồi ngó thì không biết hổ thẹn, trốn lánh thì tổn phước mắc tội.”
Nếu bệnh thật, mình báo với thầy Tri sự thì không bị tổn phước. Còn mình dối bệnh để
không làm thì tổn phước.
Thiền sư Dương Kỳ nói:
“Trên dưới trộm an là pháp môn đại hoạn.”
Có nghĩa là trên thì thầy lớn không muốn làm, mà ở dưới thầy nhỏ cũng không làm luôn
thì một thời gian, tùng lâm giải thể.
Cao Tăng Truyện có ghi:
Pháp sư Đạo An rất giỏi, lúc còn là chú tiểu, một ngày ngài thuộc một vạn câu kệ. Cơ
phong ngài rất cao, nhìn liền biết đây là bậc pháp khí thượng thừa. Một hôm ngài nằm
mộng thấy một vị Thánh tăng nói với ngài: Ông đối với sự hiểu biết và tu hành không ai
bằng, nhưng phước ông rất ít. Nếu ông có thể phụng sự chúng Tăng, sở nguyện ắt
được thành tựu. Từ đó ngài làm việc rất nhiều, đích thân ngài hành đường, trị nhật.
Ngài còn nhận đồ chúng và nuôi chúng, giảng pháp, hoằng pháp lợi sinh.
Trong Phó Pháp Viện có ghi:
Sa-môn Cầu Đa quán sát, một người trong đại chúng không có phước nên không thể
đắc đạo. Ngài khuyên, cần phải đi giáo hóa, cúng dường chư tăng, phụng sự Tam bảo.
Quả tình người đó vâng làm một thời gian thì đắc quả A-la-hán.
Người hy sinh làm việc cho đại chúng họ có một năng lực riêng. Từ năng lực, từ cái
phước đó họ vượt qua được nghịch cảnh và tu hành dễ hơn. Còn trốn việc, không
muốn làm gì hết thì tu dễ bị chướng ngại. Có đủ năng lực làm việc, phục vụ cho đại
chúng thì phước lực nhiều hơn tu ở am cốc, ở chùa tư.
Kinh Đại Báo Ân nói:
“Nếu chúng sanh dùng tâm thanh tịnh cúng dường chúng tăng, quét tháp Như Lai, lúc mạng
chung sanh về cõi trời Ý Lạc. Tư duy nghĩa lý sâu xa của các pháp, ưa thích tu tập pháp lành,
cúng dường cha mẹ, Hòa thượng, Sư trưởng, những bậc có đức hạnh. Nếu đi trên đường gặp
tháp Phật, phòng tăng nhơ, sỏi đá, gai gốc ngổn ngang thì liền dọn dẹp, do nhân duyên ấy mà
được một tướng lông xoay về bên phải trong ba mươi hai tướng tốt của đức Phật.”
“Cho đến thăm bệnh, cúng dường phương tiện cho chư tăng tắm rửa, đào giếng, dựng nhà xí
công cộng, giúp nguy, cứu gấp, cứu tế kịp thời đều là tâm đại Bồ-tát, trở thành hạnh chẳng thể
nghĩ bàn. Đã làm lợi ích rộng rãi mọi người thì được quả báo rộng lớn, hoặc mãi thọ thân hình
kiên cố bất hoại, hoặc thường được thân thể tướng hảo thanh tịnh.”
Trong huynh đệ, có ai bị bệnh mà quý thầy chịu khó nấu một nồi cháo hay một nồi
nước xông thì đây là tâm đại Bồ-tát. Vì tâm đại Bồ-tát, phát xuất từ những hạt giống
trong vô lượng kiếp, bây giờ nó ứng tác, mà trở thành cái hạnh chẳng thể nghĩ bàn. Chỉ
có mười phương chư Phật mới thấy chỗ này, chỉ lại cho mình.
Trong Đại Trang Nghiêm Kinh Luận có kể câu chuyện:
Ngày xưa, ở một nơi xa xôi có vị thầy thuốc rất giỏi được mời trị bệnh cho nhà vua. Sau
khi lành bệnh, vua cho người đến nơi ở của ông thầy thuốc, cất một biệt thự lớn, và
cấp cho ông một đàn voi, một đàn trâu và một đàn ngựa. Tuy nhiên trước khi về, vua
chỉ ban cho ông một con ngựa gầy ốm. Ông bực mình, cho rằng thưởng như vậy không
xứng với công khó ông trị bệnh cho vua.
Trên đường về, thấy người lùa một đàn ngựa, hỏi thăm mới biết đàn ngựa đó là vua
thưởng công cho ông. Về đến nhà ông càng bất ngờ hơn khi thấy nhà cửa, kho báu,
voi, trâu… Lúc đó ông mới biết vua thưởng cho ông rất nhiều.
Phật ví như người biết bố thí, cúng dường, biết phụng sự Tam bảo thì công việc tuy ít
nhưng quả phước mai sau rất thù thắng. Trong cuộc sống tu hành cũng vậy, phải
phụng sự Tam bảo. Khi chướng duyên nghịch cảnh đến, mới biết rằng nhờ làm việc cho
Tam bảo, phụng sự chúng tăng mà quý thầy vượt qua được những cảnh giới này.
Chúng tôi kinh nghiệm, ở trong chúng có những người tu hành rất miên mật, nhưng đối
với việc làm nhỏ nhặt thì lại bỏ qua, hoặc xài phí của Tam bảo. Một thời gian tu không
được do không kiệm được phước. Kiệm phước là hay phụng sự Tam bảo, giúp ích
chúng tăng.
“Chẳng được riêng lấy của chiêu đề như tre, cây, hoa quả, rau cải, tất cả đồ ẩm thực và tất cả
đồ đạc. Chú: Chiêu đề Trung Hoa gọi là vật tứ phương tăng chẳng phải một thứ. Nghĩa là
một tre, một cây, một hoa, một quả và rau cải ẩm thực đều là vật của đại chúng. Nếu lấy riêng
tức là phạm tội trộm. Nếu muốn lấy phải bạch với thầy tri sự hoặc thầy tri khố thì không có
tội.”
Muốn lấy bất cứ cái gì trong nhà kho thì phải xin.
Trong Luật có kể:
Thiền sư Tăng Chiếu là một bậc khổ hạnh đệ nhất. Ngài tụng kinh Pháp Hoa và hành
Pháp Hoa Tam Muội, cảm được Bồ-tát Quán Thế Âm đến thuyết pháp cho nghe, được
vô ngại biện tài. Lại thấy Bồ-tát Phổ Hiền cỡi bạch tượng phóng quang chứng minh.
Nhưng trước, ngài có lấy của chúng tăng một nắm muối làm trai phạn mà không báo
cho thầy tri sự hay thầy tri khố gì hết, vì cho rằng không có bao nhiêu nên không để
tâm. Sau ngài hành Phương Đẳng Sám Pháp bỗng thấy tướng muối hiện lên, sau ba
năm muối tăng đến mấy chục đấu. Ngài bèn cấp tốc bán y mua muối trả lại, lúc ấy
tướng muối mới hết.
Quý thầy thấy không, một chút xíu vậy thôi. Cho nên học kỹ oai nghi lợi ích rất nhiều.
Kinh Tạp Bảo Tạng có ghi:
Phật và tôn giả Mục-kiền-liên du hành trên hư không, thì Tôn giả nhìn thấy một con
ngạ quỷ toàn thân bị lửa bốc cháy và trong thân nuốt bảy hoàn sắt nóng. Mục-kiền-liên
hỏi Phật, nguyên nhân nào ngạ quỷ này phải chịu khổ như vậy. Phật bảo Mục-kiền-liên
họp đại chúng lại rồi ngài kể: Vào thời Phật Ca-diếp, trong mùa đói kém có một tín thí
đem một thúng đậu cúng dường chúng tăng. Vị tri khố chia đậu mà có tâm riêng tư, chia cho thầy tế độ mình hơn chúng tăng bảy hạt đậu mà bây giờ phải chịu quả báo
nuốt bảy hòn sắt nóng!
Đây là lời Phật nói. Tại sao chỉ có bảy hạt đậu mà bị quả báo? Chỗ này hơi sâu. Quả
báo là do có tâm riêng tư, tâm ái ngã, đây là thầy của tôi, thầy tế độ của tôi, hoặc thầy
mà tôi làm thị giả… thì phải hơn chúng tăng. Dính liền, quý thầy nhớ kỹ điểm đó.
Quý thầy thị giả nên nhớ, làm cái gì cũng phải xin thầy tri khố, chẳng hạn: hôm nay tôi
xay trái cây này cho thầy Phó hay thầy Cố vấn gì đó… Phải xin, chớ quý thầy tự động
làm là mắc quả báo liền. Một trái thanh long chắc phải nuốt một khối sắt! Vì có tâm
riêng tư. Học luật, mình thấy rất sợ, từ đó về sau mình có cái tâm khác hơn ngày xưa.
Học một thời gian, rồi khéo giữ giới nên tu rất dễ vào chánh định.
Trong Thích Môn Tự Cảnh Lục có ghi:
Hệ Mân họ Cố lúc bé xuất gia chẳng tu hạnh nghiệp, chỉ giỏi việc mua bán. Từng đảm
nhận quản lý kho nhà trù của chúng tăng, riêng tự lấy ăn dùng. Sau khi bệnh mất thác
sanh vào bụng trâu. Trâu sanh ra tướng to khỏe rất đẹp. Thiền sư Song Nam, một bậc
kỳ đặc, người ở Miên Châu, một hôm trên đường đi ngài thấy một con trâu kéo xe cực
khổ, mồ hôi, nước mắt chảy ra rất nhiều. Nhìn là ngài biết con trâu thác sanh từ đâu
đến. Thiền sư đến lắc sừng con trâu nói: “Sao giống Mân Công đền nợ khổ sở quá
vậy?” Con trâu nó khóc, ngài biết đây là Mân Công thác sanh vào bụng trâu để kéo cày
trả nợ. Ngài đến ngôi chùa Mân Công ở ngày xưa báo để chuộc trâu về. Mấy ngày sau
con trâu chết.
Sau này nếu quý thầy làm tri khố, tri sự hay làm bất cứ việc gì trong tùng lâm mà dính
líu của tùng lâm, của Tam bảo đều mắc quả báo hết.
“Chẳng được nói việc chánh, đắc, thất trong triều đình, chốn công phủ và việc hơn thua tốt
xấu của thế gian.”
Chuyện thế gian ai cũng thích nghe hơn Phật pháp, bởi vì những hạt giống đó chưa
chết. Cho nên Tổ Tuyên Luật Sư dạy:
“Dài, ngắn, tốt, xấu chính là việc thị phi của người tục, nói đều làm loạn đạo tâm, cũng chuốc
lấy cái tai họa nên chẳng được nói.”
Ở trong chúng, mình đâu biết ai là người tu hành chân chánh. Nói chuyện chính trị,
nhiều khi họ bắt quý thầy nữa, khổ không?
“Song miệng giương như cây cung, lời nói phát ra như mũi tên, thốt nhiên miệng cọp tổn thương
mới biết tường vách có tai, pháp khiến không gần. Nên kinh nói chẳng được luận bàn chuyện
chính trị quốc gia, bình luận về ưu liệt, ra quân hành sự, vây đánh hơn thua.”
Đức Phật cấm không cho bàn chuyện thế sự, tuy nhiên trong chúng thường mắc phải.
Trong vô lượng kiếp, biết đâu quý thầy là vua hay là tướng gì đó, bây giờ nhắc lại là
nhớ liền. Bởi vì ai cũng có những hạt giống thế gian, những hạt giống đó chưa chết, nó
gợi lại.
Đại sư Liên Trì kể:
Thiền sư An trụ trì chùa Thanh Thái năm Quang Hiếu nhà Tống, một hôm nhập định,
trong định ngài thấy hai vị Tăng dựa lan can nói chuyện. Lúc đầu ngài thấy thiên thần
cầm hai tích trượng lớn, đứng hai bên bảo vệ. Một lúc sau, ngài nghe tiếng hai con quỷ
chửi mắng và nhổ nước miếng vào mặt hai vị Tăng. Sau khi xuất định, ngài hỏi hai vị
Tăng nói chuyện gì, mới biết ban đầu hai thầy nói chuyện Phật pháp, tiếp theo
nói chuyện gia đình, rồi nói chuyện lợi dưỡng. Từ đó về sau Thiền sư An phát nguyện
không bao giờ nói chuyện thế sự, chính trị quốc gia nữa.
Ai cũng bị trường hợp này hết. Mới đầu nói chuyện Phật pháp, nói chuyện Kinh điển
như Kinh Bảo Tích hay Niết Bàn gì đó thì thiên thần đến nghe và bảo vệ. Kế đó nói
chuyện gia đình: sư huynh là con thứ mấy? Cha mẹ còn không? Cha mẹ bao nhiêu
tuổi? Rồi nói thôi anh ráng tu đi mai này làm trụ trì đem cha mẹ về nuôi. Lợi dưỡng kế
bên, quỷ nó nghe nó khinh thường! Những người có gia đình thì kể ngày xưa tôi ở đâu,
làm việc gì, bây giờ con tôi làm gì… kể một dọc ra luôn!
“Phàm mình xưng phải xưng hai chữ pháp danh, chẳng được xưng ta hay là tiểu tăng.”
Quý thầy phải xưng pháp danh là Đức Trí hay gì đó, chứ xưng “ta” hay “tiểu tăng” thì
trong luật không cho phép.
“Phần trước là nghe gọi ứng đáp.”
Ai gọi thì mình “Mô Phật”.
“Thì đây chính là tự xưng pháp danh nghĩa là thân là con Pháp vương. Tên là nói giềng tổ gia
tông phái nên gọi là pháp danh. Xưng pháp danh ấy là Thích tử chẳng phải tục sĩ. Nhưng xưng
ta thời mình khinh mình, nếu nói tiểu tăng thời khinh toàn thể chúng tăng. Song Tăng là huệ
mạng của Phật Tổ, là phước điền của trời, người, sao gọi là tiểu ư?”
Cặp mắt của người giác ngộ sáng suốt, thấy chư tăng là ruộng phước của trời, người.
Luật không cho phép xưng “ta” hay “tiểu tăng”, vì như thế là khinh thường chúng tăng.
“Nhẫn đến đối với vương hầu cũng xưng pháp danh là vậy.”
Chẳng hạn Tổng thống hay Thủ tướng đến hỏi quý thầy tên gì, quý thầy xưng pháp
danh chứ không được xưng con hay ta hay tiểu tăng.
Ngữ lục Thiền sư Triệu Châu có ghi:
Vua Triệu hỏi Thiền sư Triệu Châu quân vương quý hay Pháp vương là quý. Thiền sư
đáp: Nơi quân vương, quân vương là quý; mà nơi Pháp vương, Pháp vương là tôn quý.
Sau khi học luật, hiểu tường tận, mình nói không sợ tổn phước.
“Chẳng được nhơn việc nhỏ tranh đua. Bằng việc lớn khó nhẫn cũng phải tâm bình khí hòa.
Lấy lý luận biện, chẳng được thời từ từ mà lui. Nổi giận thốt lời thô tức là không phải bậc
hảo tăng vậy.”
Trong chúng, trong huynh đệ không được tranh hơn thua. Chuyện khó nhẫn quá thì từ
từ mình rút.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Tăng cư lục hòa, nhẫn nhục là đệ nhất. Giả sử có sự hiểu lầm phải quyền biến tạm thời, khoan
thai nhẫn nhịn, lâu ngày tự rõ.”
Huynh đệ mà hiểu lầm, nói mình làm chuyện này chuyện kia thì phải nhẫn nhịn, lâu
ngày tự nhiên huynh đệ hiểu.
“Cho nên chẳng lấy phải trái biện luận làm chỗ giải thoát. Đạo trời lấy sự bất tranh làm thiện
pháp thù thắng.”
Thiền sư Vĩnh Gia nói:
Tòng tha báng, nhiệm tha phi,
Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì.
Ngã văn kháp tự ẩm cam lộ,
Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì.
Dịch:
Mặc ai biếm, mặc ai gièm,
Châm lửa đốt trời nhọc xác thêm.
Ta nghe như uống cam lồ vậy,
Tan hết vào trong chẳng nghĩ bàn.
Quý thầy làm được không? Chẳng hạn người ta biếm, người ta gièm mình: “Ông thầy
này tôi thấy có tu gì đâu, tối ngày đi chơi không hà.” Thì sao? Ta nghe như uống cam lồ
vậy, tan hết vào trong chẳng nghĩ bàn. Đây là nói về bậc thượng căn, bậc đại lực lượng.
Còn mình thì làm chưa được. Nguyễn Công Trứ nói:
Ăn ở sao cho trải sự đời,
Vừa lòng cũng khó há rằng chơi.
Nghe như chọc ruột, tai làm điếc,
Giận dẫu căm gan miệng mỉm cười.
Giận lắm, nhưng miệng mỉm cười, tuy không nói lời thô mà không đúng tinh thần nhà
Phật. Tu làm sao phải biết cách chuyển hóa. Mới đi tu, Phật ví dụ như nắm muối bỏ
trong ly nước, uống không được. Tu một thời gian, Phật ví như nắm muối bỏ dưới sông,
dưới hồ, nước không bị mặn, uống được. Tu một thời gian có công phu thiền định, có
sám hối, tự nhiên tâm càng ngày càng mở rộng, bao dung được lời nói của huynh đệ.
Tuy biết đây là lời thị phi, hơn thua, oan ức cho mình, nhưng bây giờ tâm rộng quá nên
dung nhiếp được. Còn mới tu thì chưa.
Trong Kinh Tăng Chi Bộ, Phật dạy:
“Có ba loại sức mạnh có mặt ở đời. Thế nào là ba?
1- Sức mạnh của phụ nữ là sắc đẹp.
Có nghĩa là phụ nữ dùng sắc đẹp mà quyến rũ người khác phái.
2- Sức mạnh của trẻ con là tiếng khóc.
Trẻ con, một khi khóc lên thì đòi gì cũng được.
3- Sức mạnh của Sa-môn, bậc tu đạo là đức nhẫn.
Nhẫn là trên hết. Trong Kinh Di Giáo, Phật dạy:
“Nhẫn là cái đức mà trì giới khổ hạnh không thể bì kịp. Người hay thực hành đức nhẫn mới có
thể gọi là người có sức mạnh to lớn.”
Người có đức nhẫn thì công đức, phước đức nhiều hơn người bố thí cúng dường. Trì
giới khổ hạnh không bì kịp. Trong cuộc sống tu hành, khi chướng duyên, nghịch cảnh
đến mà nhẫn được không phải chuyện đơn giản. Chúng tôi đụng chuyện rồi, nhẫn được
không dễ. Tối về phải ngồi thiền nhiều hơn, sám hối nhiều hơn mới chuyển hóa được.
Tổ nói bậc đại lực lượng mới nhẫn được. Mà phải là thật nhẫn, chứ lầm rầm trong
miệng là không đúng. Trong bụng sục sục cũng không được, nhẫn như vậy là thua rồi.
Tuy nhiên cũng tạm vì không thốt ra lời ác.
Trong Truyện Cổ Việt Nam có câu chuyện:
Có ông phú hộ đi trên đường, vấp cục đá liền nổi sân. Ông suy nghĩ: “mình tự vấp cục
đá mà còn nổi sân huống chi người khác đụng mình. Như vậy nhẫn thật khó.” Về nhà
ông tuyên bố, ai làm ông nổi giận ông sẽ chia nửa gia tài và gả con gái cho. Nếu ba lần
không làm ông tức giận thì ông đánh ba trăm roi rồi đuổi về.
Một hôm, có anh học trò trông rất thông minh đến xin thử. Ngày đầu tiên, ông phú hộ
bảo anh học trò giả làm chó còn ông làm thợ săn. Săn được con thỏ đem về nấu nướng
xong, ông phú hộ sai anh học trò đi mua rượu. Anh học trò nói:
– Chó làm sao biết mua rượu. Ông là người ông phải đi chứ.
Ông phú hộ đi mua rượu về thấy anh học trò ăn hết con thỏ. Ông trừng mắt hỏi:
– Sao mầy cả gan ăn hết con thỏ?
– Ông không nghe người ta nói chó treo mèo đậy sao? Ông để dưới này thì con ăn.
Ăn xong anh học trò hỏi ông phú hộ có giận không, ông nói không giận.
Ngày thứ hai ông phú hộ giả làm chó, anh học trò làm thợ săn, vô rừng cũng săn được
con thỏ. Lần này anh học trò đi mua rượu, nhưng trước khi đi, anh trói ông phú hộ lại.
Ông nói:
– Tại sao mày trói tao?
– Không trói ông ở nhà ăn hết con thỏ sao.

Sau khi mua rượu về, anh học trò ngồi trên bàn, ăn thịt uống rượu, liệng xương xuống
cho “chó” rồi hỏi ông phú hộ có giận không. Ông phú hộ bực lắm nhưng ráng nhịn.
Ngày thứ ba, anh học trò bắt ông phú hộ gánh hai cái thúng đi mua đồ. Ông không biết
nó ngồi sẵn trong thúng, gánh nặng quá, mở ra mới thấy. Ông tìm cách ngồi vô thúng
rồi bắt học trò gánh lại. Học trò giả đò la “có voi tới” rồi quăng thúng, gánh xuống sông
làm ông uống nước gần chết.
Lần cuối cùng, anh học trò ra bờ ruộng thấy bãi phân trâu, nó lấy thúng úp lên rồi chạy
về báo:
– Ông ơi, con mới bắt được con phụng hoàng đất lớn và quý lắm, ông mà đem bán cho
vua sẽ thành tỷ phú.
Ông mừng quá chạy ra ôm cái thúng. Học trò dặn:
– Ông không được mở thúng ra coi chừng nó bay, đợi con về lấy lưới.
Vừa lúc đó đằng xa có tiếng trống kèn của vua đi đến, vua hỏi tại sao đứng chắn
đường của vua. Ông nói có con phụng hoàng đất, sợ giở thúng ra nó bay mất. Ông vua
cũng thích con phụng hoàng, tò mò thọc tay vô thúng trúng bãi phân trâu. Vua tức
quá, sai quân nọc ông phú hộ ra đánh ba trăm roi rồi ra lệnh xử trảm vì tội khi quân.
Anh học trò chạy ra hỏi ông có giận con không, ông phú hộ nói:
– Tao không giận nhưng mà tao muốn giết mày.
Cố gắng nhịn lắm nhưng cuối cùng cũng nổi giận, có nghĩa là nội kết không biết cách
chuyển hóa. Đây là chuyện thế gian. Còn chuyện xuất thế gian của mình thì sao? Ai
cũng có niệm giận, học Phật pháp, những hạt giống niệm mình phải biết cách chuyển
hóa từ trong trứng nước, chuyển hóa lần lần. Rất khó, cho nên Tổ nói bậc đại lực lượng
mới chuyển hóa được những hạt giống này.
Trong Kinh A Hàm, Phạm Chí Bà-la-môn hỏi Phật về việc sát sanh. Phạm Chí hỏi:
Giết gì được an ổn,
Giết gì được an vui,
Giết gì tâm không hối?
Gì là gốc các độc,
Gì là gốc khổ đau?
Phật dạy:
Giết sân được an ổn,
Giết sân được an vui,
Giết sân tâm không hối.
Sân là gốc độc hại,
Sân là gốc khổ đau.
Tu hành mà hết niệm sân thì rất là nhẹ và an ổn. Hết cái thô thôi cũng là nhẹ rồi. Còn
không thì hay đem sự thô bạo đến cho người khác.
Kinh A Hàm ghi:
Một ni cô nước Sa Ca La gặp một vị Bà-la-môn tu khổ hạnh dùng năm loại lửa nướng
thân mình. Đầu tóc khô giòn, môi miệng nứt nẻ, người đời gọi ông là La-hạt-chít tức là
cây vải bông nướng. Một hôm cô nói với ông:
– Cái đáng thiêu ông không thiêu, lại lầm lẫn thiêu cái không đáng thiêu, sao mà si mê
quá vậy?
Vị Bà-la-môn giận dữ:
– Đồ con lừa, ngươi nói cái gì mới đáng thiêu?
Sư cô nói:
– Cái đáng thiêu chính là tâm nóng giận của ông. Nếu ông thiêu cháy được cái tâm đó
thì mới là thiêu thật sự. Giống như trâu không đi thì đánh trâu ai lại đánh xe. Cũng vậy,
phải đánh thức cái tâm kia, thiêu cháy cái tâm đó thì thân hết bị giày vò đau khổ.
Nghe xong vị Bà-la-môn thức tỉnh.
Những vị tu khổ hạnh bên phái lõa thể họ hay dùng phương pháp này. Họ nướng thân,
đứng giữa trưa nắng. Sư cô nói cái đáng thiêu chính là tâm nóng giận của ông, ông
phải tìm cách chuyển hóa.
Mình tu hành cũng vậy, phương pháp rất nhiều nhưng đòi hỏi phải tu tập như thế nào,
để chuyển hóa sân hận. Quý thầy biết tu tập cái gì không? Lòng từ. Ai nóng giận nhiều
thì phương pháp duy nhất là rải lòng từ. Lòng từ tăng trưởng nhiều chừng nào, thì lòng
sân hận bớt chừng nấy. Chuẩn bị ngồi thiền, mình nhiếp niệm năm, mười phút rải lòng
từ ra. Giống như ngài Đạt Lai Lạt Ma, ngài nói ngài luôn rải tâm từ đến đối tượng làm
cho ngài đau khổ.
Tổ Tuyên Luật Sư dạy:
“Nếu lấy việc nhỏ mà chấp chặt tranh luận thì việc nhỏ cũng thành to.”
Có những chuyện nhỏ, quý thầy không biết cách chuyển hóa mà chấp chặt vào, rồi
tranh luận hơn thua thì nó thành chuyện lớn. Từ đó về sau tự nhiên có nội kết. Từ cái
nội kết này, không khéo là đưa đến con đường sát sanh. Chuyện này trong tùng lâm có
rồi.
Có lần theo Hòa thượng về miền Tây, tôi nghe kể có hai huynh đệ mới đầu cãi nhau,
chuyện rất là nhỏ nhưng chấp chặt tranh luận, cãi một hồi thành chuyện to, thầy sư
huynh đánh thầy sư đệ chết. Bữa nọ tôi hỏi thăm biết thầy sư huynh vẫn tiếp tục ở tù
rất là khổ sở, mỗi ngày phải đi bắt cho được hai ký cá, không có thì bị đánh! Cho nên
phải cẩn thận.
Trong Nghệ Thuật Sống kể:
Hai vợ chồng mới cưới đang ngồi ăn cơm với nhau thì thấy con chuột chạy ngang.
Chồng nói chuột chạy xuống giường, vợ nói chuột chạy trên bàn thờ. Chỉ vậy thôi mà
cãi qua cãi lại rồi không nhìn mặt nhau nữa. Sau đó người chồng làm lành, chấp nhận
vợ đúng. Ngay chỗ đó đáng lẽ yên rồi, nhưng người vợ nói “Ông đúng là mắt đui, tôi đã
thấy là chuột chạy trên bàn thờ!” Lại tiếp tục cãi nữa.
Cuộc sống tu hành, đôi khi cũng vấp phải tương tự. Có những huynh đệ họ xuống nước
họ nói “Bây giờ tôi chịu thua anh đó”, thì mình lại nói: “Đúng rồi, ông kiến chấp dữ lắm.
Tôi nói cái đó đúng.” Cãi tiếp tục! Trong chúng có chuyện này rồi.
Tôi chứng kiến, hai người cùng nội kết, chấp chặt kiến giải. Một người giộng tay vào
gốc thông chảy máu rồi nói: “Đó, bây giờ ông coi cái tay tôi, ông không chạy thì coi
chừng cái mặt ông!” Người kia bỏ chạy.
Sư huynh của ngài An Thế Cao thuyết pháp rất giỏi, kiến giải rất sâu sắc nhưng có tật
hay giận. Ngài An Thế Cao biết mai này sư huynh chết chắc chắn sẽ đầu thai kiếp mãng
xà khổ sở. Niệm sân hận thác sanh về những cảnh giới xấu ác. Chỉ cần khởi niệm sân
hận lên là tự nhiên nó đi bậy liền.
“Nếu việc lớn mà có thể nhẫn thì việc lớn cũng thành nhỏ. Nói việc lớn chẳng qua là bị người ta
vu khống chê bai thôi.”
Quý thầy nhớ câu chuyện mà việc lớn biến thành nhỏ không? Câu chuyện Thiền sư
Bạch Ẩn, quý thầy đều nghe hết rồi:
Có người ẵm con đến Thiền sư Bạch Ẩn, nói là con của ngài. Ngài nói: “Thế à!” Một thời
gian sau hối hận, cô gái đến xin con lại, nói không phải con ngài, ngài cũng nói: “Thế
à!”
Chuyện lớn, nếu nhẫn thì biến thành nhỏ.
“Song một chữ nhẫn này nói thì rất dễ mà hành thì rất khó.”
Nói thì rất dễ, quý thầy nhớ câu chuyện nào không?
Một vị tướng quốc đến Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo xin xuất gia, Thiền sư nói:
– Ngoài đời ông đủ thứ việc mà xin xuất gia gì, thôi để từ từ.
– Bây giờ gia đình, của cải, vợ con gì con đều buông xuống hết rồi. Xin cho con được
xuất gia.
Thiền sư nói:
– Sao ông đi lễ Phật sớm vậy?
Ông đáp:
– Vì trừ lửa trong tâm, dậy sớm lễ Sư trưởng.
Thiền sư nói:

Dậy sớm như thế ấy, chẳng sợ vợ ngủ người.
Ông trợn mắt liền:
– Ông già này ăn nói gì vậy?
Lúc này Thiền sư nói:
Nhè nhẹ phẩy chiếc quạt,
Tánh lửa đã nóng bừng.
Tánh lửa nóng như thế,
Làm sao buông xuống xong!
Nói thì dễ nhưng hành thì rất khó. Chính bản thân chúng tôi ra làm việc Phật sự, gặp
chuyện vu khống rất nhiều. Có những chuyện mình không làm mà họ gán cho, thì nói ai
nghe, ai hiểu. Ngày xưa tôi làm việc bên Canada, đi giảng bằng tàu lửa từ Montreal, tự
nhiên nước mắt nó trào ra, đi đoạn đường xe lửa một ngàn cây số là khóc hết một
ngàn cây số luôn. Mình không biết tâm sự với ai, cuối cùng chỉ có khóc thôi chớ không
có cách nào khác hết.
Còn một câu chuyện nói thì dễ mà hành rất khó:
Tô Đông Pha gửi lá thư cho Thiền sư Phật Ấn:
Đảnh lễ thiên trung thiên,
Hào quang chiếu đại thiên.
Tám gió thổi không động,
Hoa sen tím ngồi yên.
Thiền sư Phật Ấn không nói gì, chỉ ghi mấy chữ “Cục cứt, cục cứt” gửi qua.
Tô Đông Pha chèo đò qua liền, mặt hầm hầm:
– Tôi với thầy tình nghĩa thân thiết, tôi có làm gì thầy đâu mà thầy ghi “cục cứt” vậy?
Thiền sư nói:
– Ông nói “tám gió thổi không động”, mà bây giờ “cục cứt vượt sang sông!”
Cũng như câu chuyện, ông thiền tăng đến chùa Tướng Quốc nói cái gì cũng không, nhà
không, chúng sanh không, ba thời đều không, hiện tượng không, pháp giới cũng không.
Thiền sư sẵn cái dùi chuông gõ vào đầu ông, ông liền la lên:
– Sao thầy đánh tôi?
Thiền sư nói:
– Cái gì ông cũng nói không sao bây giờ đầu sưng ông lại nói có?
Cho nên Tổ Tuyên Luật Sư khẳng định:
“Phải là người có đại lực lượng mới có thể hàng phục tâm này. Nếu lực lượng yếu kém thì liền
bị trôi giạt vào nước quỷ La-sát.”
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên kể:
Tướng công Vu Địch đến Thiền sư Đạo Thông hỏi:
– Thế nào là “hắc phong xuy kỳ thuyền phưởng phiêu đọa La-sát quỷ quốc.”
Đạo Thông đáp:
– Kẻ khách Vu Địch hỏi việc ấy làm gì?
Vu Địch đỏ mặt, Thiền sư chỉ nói:
– Cái đó chính là phiêu đọa La-sát quỷ quốc.
Lúc này ông tướng khách hỏi:
– Thế nào là Phật?
Thiền sư gọi:
– Tướng công!
– Dạ!
Sư bảo:
– Lại chớ tìm cái gì khác.
Có nghĩa là trở về con người của mình nhưng ở đây nói phải là bậc đại lực lượng mới
làm được.
Thiền thoại có ghi:
Có một vị cư sĩ đến thưa với Thiền sư Bàn Khuê:
– Con rất hay sân giận, nói chuyện một chút là con sân lên rồi. Ai nói gì không phải con cũng
nổi sân.
Thiền sư bảo:
– Ông đem sân ra ta trị cho.
– Thưa Thầy, khi gặp chuyện mới có, còn bây giờ không thấy.
Câu này đơn giản mà rất hay, cái sân hận ngay trong thực tại thì không có, mà đụng
chuyện thì ở đâu nó chạy ra.
Lúc này Thiền sư khai thị:
– Ông hãy nhớ cha mẹ sanh ra ông chỉ có tâm Phật chứ không có tâm sân hận. Nhớ là chỉ có
tâm Phật thôi.
Chỉ có một tánh biết duy nhất thôi. Ngoài ra, hằng ngày có buồn, vui, có lúc sân, có lúc
không sân, những cái này đắp đổi sanh diệt mà cái gì thấy được chỗ đó? Thiền sư Bàn
Khuê nói, cha mẹ sanh ra chỉ có tâm Phật thôi, còn ngoài ra đều là vọng tưởng, điên
đảo hết.
Sao gọi là tâm bình, khí hòa?
Sa Di Học Xứ ghi:
“Thiền sư Tuyết Đường nói: Khí thắng trí gọi là tiểu nhơn, trí thắng khí gọi là quân tử, trí cùng
khí quân bình gọi là đắc đạo thánh hiền.”
Trong Đại Luật có ghi:
“Người tu không nhẫn nhục có năm điều lỗi:
1- Hung ác càng thêm.
Người không biết nhẫn nhục, không biết chuyển hóa, gặp chuyện gì cũng sân thì khuôn
mặt nhìn khác người hay nhẫn nhục. Ngồi gần những người hay sân mình cũng cảm
thấy bất ổn.
2- Sự rồi thì hối hận.
3- Nhiều người không ưa.
4- Tiếng dữ đồn khắp.
5- Chết đọa trong đường ác.”
Có vị thi sĩ làm bốn câu thơ:
Có khi nhẫn để yêu thương,
Có khi nhẫn để tìm đường lo toan,
Có khi nhẫn để vẹn toàn,
Có khi nhẫn để tránh tàn sát nhau.
Ở trong chúng, bắt buộc phải nhẫn. Nhẫn không phải vì sợ mà vì thương huynh đệ. Họ
cùng mục đích với mình đến tu hành. Ở ngoài đời, gặp chuyện gì thì anh em ruột bênh
vực, nhưng huynh đệ còn hơn anh em ruột vì cùng mục đích, cùng chí hướng với mình.
Thiền sư Văn Hỷ đến chùa Kim Cương, sau khi không ngộ nhập được tri kiến Phật thì
xin Đồng Tử tức hiện thân Bồ-tát Văn Thù một bài kệ. Bồ-tát Văn Thù đọc bài kệ:
Diện thượng vô sân cúng dường cụ,
Khẩu lý vô sân phổ diệu hương,
Tâm lý vô sân thị trân bảo,
Vô cấu vô nhiễm thị chơn thường.
Tức là:
Trên mặt không sân đồ cúng dường,
Trong miệng không sân xuất diệu hương,
Trong tâm không sân là trân bảo,
Không nhơ, không nhiễm là chơn thường

Tin khác

Cùng chuyên mục