Để nhận thức được vấn đề cầu siêu và cúng thí thực của Phật giáo khác với ngoại đạo ở điểm nào. Trong bài viết có tựa đề: “Cúng thí thực theo tinh thần kinh Nikaya” của tác giả Thích Đức Trí trên trang Điện tử (ĐPNN- 06/8/2016) tác giả cho rằng:
“Lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật giáo. Nếu không hiểu rõ ý nghĩa tích cực và phương pháp lễ cúng này mà áp dụng lễ cúng theo kiểu Tế Đàn cực đoan của Bà la môn giáo và ngoại đạo thì chắc chắn không có phước báo tốt đẹp.
Bởi một lễ cúng đầy đủ ý nghĩa cần có thực phẩm hiến cúng và dùng pháp ngữ khai thị hương linh, (ngạ quỷ) nhận thức về đạo lý để họ xả ly chấp thủ, luyến ái và sớm được giải thoát tự tại. Vấn đề ở đây cần nhận thức rõ ràng tinh thần của người hiến cúng và đối tượng được hiến cúng trong pháp thí thực một cách có trí tuệ, mới có sự lợi lạc“.
Trong bài viết này, tác giả đã dùng kinh điển dẫn dắt sâu sắc về ý nghĩa khác nhau của lễ cúng thí thực theo tinh thần kinh Nikaya. Đó là người hiến cúng và đối tượng được hiến cúng theo quan điểm tư tưởng của chánh pháp (Phật giáo) và Bà la môn giáo cũng như các ngoại đạo. Bài viết rất hữu ích, giúp chúng ta có cách nhìn và hiểu biết thêm về các nghi thức và phương pháp của lễ cúng thí thực cũng như lễ cầu siêu nói chung. Xin được trích dẫn một phần nội dung dưới đây để chúng ta cùng suy ngẫm về vấn đề nêu trên.
1. Người hiến cúng
a) Hiến cúng bằng pháp bất thiện
– Người hiến cúng thí thực bằng pháp bất thiện sẽ mắc nghiệp xấu, vì giết hại sinh linh lấy thịt cúng tế sẽ tạo ba thứ ác nghiệp từ thân, miệng, ý chắc chắn sẽ đưa đến kết quả không như ý muốn. Điều này được ghi lại trong kinh Tăng Chi qua Phẩm Tế Đàn, khi đức Phật đã trả lời cho Bà la môn Uggatasarira. Bởi vị Bà la môn này có ý định đốt lửa, dựng trụ tế đàn, giết hàng trăm con bò, con cừu, con heo làm thực phẩm hiến cúng để cầu mong được quả phước lớn.
Đức Phật đã thẳng thắn phê phán, cho đó là hành động bất thiện chỉ đưa đến quả khổ trong đời này và đời sau, Ngài dạy như sau: “Này Bà la môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ tế đàn, dựng lên ba cây kiếm này đưa đến chỗ sinh, khổ dị thục” (5). (Dựng lên ba cây kiếm là ẩn dụ cho ba nghiệp xấu ác của thân, miệng và ý, vì đã giết hại sinh linh để làm thực phẩm cúng tế một cách mù quáng).
Nhân đây, cũng xin đề cập thêm nội dung lời của đức Địa Tạng Vương Bồ tát bạch đức Phật, nói về việc cõi Diêm phù đề (tức cõi thế chúng ta) vì không hiểu giới sát mà bày ra việc giết heo, mổ gà tổ chức cúng lễ người lâm chung và người quá cố chỉ tạo thêm ác nghiệp trong kinh Địa Tạng như sau:
“Vì không hiểu giới sát đó nên con đối trước đức Phật Thế Tôn, cùng với hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng, người với phi nhân v.v… mà có lời khuyên bảo những chúng sinh trong cõi Diêm phù đề. Ngày lâm chung, kẻ thân thuộc phải cẩn thận chớ có giết hại và chớ gây tạo nghiệp duyên chẳng lành, cũng như dùng tế lễ Quỷ, Thần, cầu cúng ma quái”.
“Vì sao thế? Vì việc giết hại cho đến tế lễ đó, không có một mảy mún chi lợi ích cho người chết cả, chỉ có kết tội duyên của người đó làm cho càng thêm sâu nặng hơn thôi“. (Kinh Địa Tạng, HT.Thích Trí Tịnh dịch, ấn tống 1994, tr.106). Qua đây chúng ta hiểu rằng, trong dân gian Việt Nam nước ta, nếu cá nhân gia đình hay truyền thống làng, dòng họ tổ chức với bất kỳ nghi lễ cúng tế nào mà sát sinh, hại vật đều đưa đến quả khổ chung cho cả người cúng, lẫn đối tượng được cúng.
b) Hiến cúng thí thực bằng pháp thiện
Người hiến cúng bằng thiện pháp sẽ đưa đến phước lành, họ không sát hại sinh linh để lấy thịt hiến cúng, dùng phẩm hạnh thanh tịnh cúng tế. Pháp hiến cúng này thể hiện được phẩm hạnh từ bi giúp các sinh linh thoát khỏi cảnh giới đói khổ. Trong kinh Tăng Chi Đức Phật giải thích rõ cho các người Bà la môn như sau: “Này Bà la môn, tại những tế đàn nào, trong ấy không có bò bị giết, không có dê cừu bị giết, không có gà heo bị giết, không có các loài sinh vật khác bị giết hại.
Này Bà la môn, Ta tán thán loại tế đàn không có sát sinh như vậy, tức là làm bố thí, tế đàn cầu hạnh phúc cho gia đình. Những loại tế đàn không có sát sinh như vậy, này Bà la môn, các A la hán và những ai đi trên con đường hướng đến A la hán, có đi đến” (6). Qua đoạn kinh trên, nội dung khẳng định rõ ràng, cúng tế không sát hại sinh linh là có quả báo tốt đẹp, đáng được tán thán.
2. Đối tượng được cúng
Hương linh, vong linh theo thuật ngữ chỉ cho người thế tục qua đời. Giác linh cũng chỉ cho người qua đời, nhưng có giới đức và phẩm hạnh. Ở đây, các bậc thánh giả, thoát ly luân hồi chúng ta không bàn tới trong chuyện cúng thí. Theo tuệ giác của Phật thì những hạng người không tu tập thiện pháp, người sát sinh, trộm cắp, tà hạnh và ác khẩu, khi chết không được sinh thiên giới, không được tái sinh làm người, phần đông sinh vào cảnh giới thấp như địa ngục, ngã quỷ và súc sinh.
Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, ít hơn là các chúng sinh sau khi chết từ thân người, được tái sinh làm người lại. Và nhiều hơn là các chúng sinh sau khi chết từ thân người, phải tái sinh vào cõi ngạ quỷ” (7). Những chúng sinh trong loài quỷ này, đa số chịu nhiều sự đói khát và có hình thù quái lạ, phần nhiều cầu mong sự cúng thí thực phẩm của người đời. Phẩm vật hiến cúng và đối tượng thọ nhận phải có sự tương ưng.
Trong văn hóa cúng bái dân gian ở nước ta, mỗi khi cúng người ta thiết lập bàn gọi là bàn thượng và bàn hạ. Bàn thượng cúng hoa, bông trái và nước trong tinh khiết dành cúng chư thiên và các chúng sinh ở cảnh giới cao, gọi là bàn Thiên. Bàn hạ là cúng thức ăn thông thường như người đang sống thường dùng như cơm, cháo, bánh trái để cúng cho các hương linh, gọi là bàn hương linh.
Trong nghi thức chẩn tế và siêu độ thì đàn tràng được thiết lập theo triết lý Mật tông. Người cúng thỉnh sư đọc tụng chân ngôn, cầu sự gia trì của Phật và Bồ tát giúp cho chúng hương linh (ngạ quỷ) được thọ dụng no đủ và thoát khổ.
Sự hiến cúng thực phẩm vì sao cần khai thị hương linh trong lễ cúng: theo kinh Phật dạy, các hương linh đó nếu thọ dụng được thức ăn hiến cúng đó, tương ương chúng sinh trong cảnh giới ngạ quỷ. Cho nên hương linh là ngôn ngữ dân gian, có thể thọ nhận được sự hiến cúng phẩm vật. Kinh chép rằng: “Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sinh vào cõi ngạ quỷ. Món ăn của chúng sinh ngạ quỷ như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Món ăn nào các bạn bè, hoặc thân hữu, hoặc bà con, hoặc người cùng huyết thống từ đấy muốn hiến cúng cho vị ấy, tại đấy vị ấy sống với món ăn ấy.; tại đấy vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà la môn, đây là tương ưng xứ, trú ở đây vị ấy được lợi của bố thí ấy” (8).
Thực chất cảnh giới chúng sinh trong loài quỷ có nhiều loại, tùy theo phước báo và nghiệp lực sai biệt, nên sinh vào trong loài quỷ cũng có nhiều loại. Thức ăn chúng ta hiến cúng, tương ưng với nghiệp lực loài đó, thì có sự thọ nhận. Kinh điển Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa thường nhắc đến loài quỷ có phước và oai lực, loài quỷ thiếu phước đau khổ và đói khát. Có loài quỷ thường xuất hiện trong không gian, chỉ có người có tuệ nhãn mới thấy.
Điều này được ghi nhận trong kinh Nikaya ghi rất rõ ràng, khi tôn giả Mục Kiền Liên trông thấy có nhiều loài quỷ quái dị mà người bình thường không thể thấy và điều này đức Phật xác nhận qua đoạn kinh sau: “Xưa kia, này các Tỳ kheo, Ta đã thấy chúng sinh ấy nhưng Ta không có nói. Nếu Ta có nói, các người khác cũng không tin Ta. Và những ai không tin Ta, những người ấy sẽ bị bất hạnh, đau khổ lâu dài” (9).
Phật giáo không phải thiết lập mục đích sự chứng ngộ thông qua nghi lễ cúng tế. Nhưng thực hiện nghi thức cúng thí thực cho người đã khuất bằng phẩm vật thanh tịnh, không giết hại sinh linh làm phẩm vật cúng tế là được đức Phật tán thán. Pháp thí thực như vậy không phải xuất phát từ tín ngưỡng ngoại đạo mà có. Vì thông qua pháp ngữ trong lễ cúng, chư hương linh, ngạ quỷ để nhận chân được chân lý Phật dạy.
Thay lời kết
Đạo Phật lấy con người làm cơ sở chính cho sự tu chứng, chỉ có con người mới đủ điều kiện thuận lợi để đi đến giác ngộ – giải thoát toàn triệt. Chính vì điều này mà Phật giáo lấy quan điểm độ sinh trước khi độ tử. Tại sao vậy? Vì khi con người còn tại thế thì sự huân tập, tu học đạo pháp sẽ dễ dàng hơn khi con người đã chết hoặc bị đọa lạc. Vậy trong kinh điển mới có câu “thân người khó được Phật pháp khó gặp“.
Nói như thế không có nghĩa là Phật giáo xem nhẹ việc lễ cúng cầu siêu các hương linh, vong linh và các loài khác nói chung. Qua kinh điển chúng ta thấy, việc cầu siêu cúng thí không đúng pháp sẽ chẳng mang lại lợi ích gì (nếu không muốn nói pháp tà lợi dụng điều này gây phiền não). Bởi trong một lễ cúng dưới hình thức nào, ngoài vật phẩm cúng thí, điều quan trọng mà ta thấy ở Phật giáo là sự khai thị hương linh trong lễ cúng để (họ) liễu lộ giáo lý đức Phật dạy mà cởi bỏ bám víu, dính mắc tham sân, vọng tưởng để được thoát cảnh giới đọa lạc. Có như vậy, mới gọi là “âm siêu dương thái” và ngược lại, nếu không có trí tuệ chánh Pháp soi sáng thì hiệu quả đem lại sẽ chẳng như mong muốn là điều chắc chắn.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, con người thường chạy theo giá trị vật chất, dễ dàng quên đi cái ân nghĩa đối với người thân thuộc đã qua đời. Thực tế bố thí trong đó có Pháp thí luôn nuôi dưỡng và khơi dậy tinh thần cứu khổ và ban vui của đạo Phật đối với chúng sinh ngay trong đời này và các đời sau. Đây là nét đẹp nhân bản mà ta thấy chỉ có chánh pháp của giáo lý đạo Phật mới có thể đem lại.
Cư sĩ Nguyễn Đức Sinh(Phatgiao.org.vn)
(1) Mười pháp giới: Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh.
(2) Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Thập địa, HT.Trí Tịnh dịch.
(3) Kinh Trường Bộ, HT.Minh Châu dịch.
(4) Kinh Trung Bộ – số 135, HT.Minh Châu dịch.
(5) Tăng Chi Bộ – kinh Nikaya, HT.Thích Minh Châu dịch Việt chương VII – Bẩy pháp, Phẩm tế đàn.
(6) Kinh Tương Ưng bộ, tập 2 HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo 2015, tr.830.
(7) Kinh Tăng Chi bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo 2015, tr. 720.
(8) Kinh Tương Ưng bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn giáo, tr.599.
Tài liệu tham khảo:
– Kinh Vu Lan, kinh Địa Tạng, kinh Thủy sám và Lương Hoàng Sám.
– Bài: Lễ cúng thí thực theo tinh thần kinh Nikaya – Thích Đức Trí (Trang Điện tử PGNN – 06/8/2016).