Chủ Nhật, 2 Tháng Tư 2023
Kinh-Luận Kinh giảng Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện giảng ký (Phần 7 )

Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện giảng ký (Phần 7 )

Phần 7



Kính thưa hai lão hòa thượng, chư vị pháp sư, chư vị đồng học:

Xin mở kinh, ‘Khoa Chú’ của Thanh Liên pháp sư, ở Đài Loan gần đây chúng tôi phát tâm in hai vạn bộ, tương lai mọi người đều có thể có bản in hoàn hảo.  Kinh Địa Tạng vô cùng quan trọng, từ kinh điển chúng ta thấy được Thế Tôn giao phó sứ mạng giáo hóa chúng sanh trong thời Mạt pháp chín ngàn năm này cho Địa Tạng Bồ Tát, thế nên Địa Tạng Bồ Tát chính là đại biểu của đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong thời Mạt pháp, địa vị của ngài vô cùng đặc biệt, ngài thay thế Phật.  Chúng ta thấy trong kinh này, hết thảy Bồ Tát nhận lời phó chúc đều ủng hộ Địa Tạng Bồ Tát.  Trước giảng đài chúng ta thờ Địa Tạng Bồ Tát, mọi người đều nhìn thấy, chúng ta nhất định phải y giáo phụng hành.

Hôm nay giảng đoạn kinh nói về Tứ Đại Thiên Vương đặt ra câu hỏi.  Nói thật ra, nghi vấn của họ chính là nghi vấn chung của chúng ta.  Tại sao Địa Tạng Bồ Tát nhiều kiếp lâu xa đến nay thường phát đại nguyện phải độ tận chúng sanh, nhưng mãi cho đến nay chúng ta thấy hình như chúng sanh chẳng được độ, tạo tác tội nghiệp ngày càng nặng, nguyên nhân rốt cuộc là ở chỗ nào?  Hy vọng Thế Tôn có thể khai thị cho mọi người.  Đoạn khai thị phía sau đều là những lời trong kinh Phật. Người học giảng kinh chúng ta khi gặp những đoạn kinh văn này phải đặc biệt lưu ý, lúc đối diện thính chúng đông đảo, trong thính chúng có người đã từng gặp phải những nạn ấy,  nếu chúng ta giảng không khéo thì họ rất khó chấp nhận, khó chịu, thậm chí sẽ thốt lời trách móc, khởi tâm oán trách, như vậy thì không tốt.  Thế nên khi gặp kinh văn như vầy thì phải dùng cách khéo léo, phải khơi gợi mà không làm tổn thương lòng tự ái của người ta.  Ðiểm này vô cùng quan trọng.  Trong ‘Nội Ðiển Giảng Tọa’ các bạn đã học qua rồi, tuyệt đối không thể gây tổn thương đến lòng tự ái của người ta, thí dụ trong kinh văn, ngày nay chúng ta muốn nói về tàn tật, nói quá nhiều về những việc này.  Nếu bạn nói cặn kẽ như vậy thì họ nghe xong sẽ rất buồn bực, chỉ nên nói sơ lược, phớt qua thôi; còn những chỗ liên quan đến nhân quả báo ứng thì có thể nói sâu thêm một chút, làm cho họ cảnh giác.

Ngoài ra nhất định phải biết ngày nay chúng ta giảng kinh chẳng phải chỉ có những thính chúng [hiện diện] trước mắt này mà thôi, băng thâu hình được phát hình toàn thế giới, thính chúng coi băng này qua máy truyền hình không biết là bao nhiêu mà tính, cũng không biết họ là người như thế nào, chúng ta phải dự liệu, không thể làm mích lòng họ.  Phải làm cho họ nghe xong có thể sanh tâm hoan hỷ, tâm cung kính, có thể quay về, sửa đổi lỗi lầm.  Ðược vậy thì sự giáo học Phật pháp của chúng ta mới thành tựu viên mãn.  Chẳng giống lúc trước, lúc trước chỉ có thính chúng có mặt tại buổi giảng, nếu chẳng hiện diện nơi ấy thì chẳng nghe được; hiện nay truyền hình, truyền thanh, người trên cả toàn thế giới đều nghe được.  Vả lại băng thâu hình, thâu thanh có thể lập lại nhiều lần, bạn suy xét coi thử thính chúng sẽ là bao nhiêu?  Ðây là việc chúng ta phải dự liệu, không thể sơ sót.

Bây giờ xin xem kinh văn.  Tương lai chúng ta in xong cuốn Khoa Chú, lưu thông với số lượng nhiều, đặc biệt là đạo tràng Ðịa Tạng Bồ Tát ở Cửu Hoa Sơn, chỗ của Bổn Tôn, chúng ta nhất định phải dốc toàn tâm toàn lực để ủng hộ.  Ngày nay thế giới động loạn, chư vị đều cảm nhận tình cảnh động loạn này rất rõ ràng, hơn nữa, tai biến nhiều phi thường, bất luận ở quốc gia nào trên thế giới, ở địa khu nào, có nhiều tai biến to lớn, ngày nay tin tức, thông tin đều chẳng tường trình nữa.  Tại sao không tường trình nữa?  Chúng ta suy đoán có thể là vì sợ mọi người biết được sẽ cảm thấy khủng hoảng.  Vì muốn an định cục diện xã hội trước mắt nên rất nhiều tai nạn lớn đều không tường trình nữa, đây là điều chúng ta có thể lý giải được.  Nhưng những tai nạn này xảy ra như thế nào?  Người đời chẳng hiểu nguyên nhân, đều gán cho nó là tai họa tự nhiên, đẩy trách nhiệm cho thiên nhiên, hình như chẳng liên quan gì đến con người chúng ta, đây là sự sai lầm to lớn.  Có quan niệm và tâm thái này không những tai biến không thể chấm dứt mà càng ngày càng nghiêm trọng, chúng ta sẽ còn phải chịu khổ nạn lớn hơn.  Chúng ta có trách nhiệm, có sứ mạng làm thế nào giúp đỡ xã hội, hóa giải, giảm nhẹ, đình trệ những tai nạn này, đó chính là hết lòng học Phật, hết lòng tu hành.

Phật dạy chúng ta tận hư không trọn cả pháp giới và chúng ta cùng một thể, đây là thật, chẳng giả, cả bộ Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh chính là giảng về một việc này.  Thế giới này hình thành như thế nào?  Trong kinh Phật giảng rất rõ ràng, có tình có tưởng thì sẽ biến hiện ra thế gian hữu tình, chín pháp giới thế gian hữu tình; vô tình vô tưởng thì sẽ biến thành khí thế gian [1], Pháp Tướng Duy Thức giảng rất tường tận, thấu triệt.  Hữu tình thế gian là Kiến Phần trong A Lại Da thức biến hiện ra, Vô tình thế giới là Tướng Phần [2] trong A Lại Da Thức biến hiện ra, Kiến và Tướng đều cùng một nguồn gốc, cùng thuộc một Tự Chứng Phần[3], làm sao có thể nói không có liên quan được?  Trong kinh Đại Thừa, Phật nói: ‘Tình và Vô Tình cùng tròn đầy chủng trí’, như vậy cả hai Tình và Vô Tình mới ‘cùng’ được.  Nếu cả hai chẳng có liên quan như vậy thì làm sao ‘cùng’ được?

Ðức Phật lại nói với chúng ta: ‘Hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh’, hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian đều từ tâm tưởng sanh.  Vì từ tâm tưởng sanh nên cái tâm tưởng này là chủ tể.  Trong hội giảng kinh Lăng Nghiêm, Phật nói rõ ràng, minh bạch hơn: ‘Nếu chuyển được cảnh thì cũng giống như Như Lai’, đây tức là nói ‘y báo chuyển theo chánh báo’.  Chánh báo là gì?  Chánh báo là tâm, là ý niệm (niệm đầu).  Chúng ta thường nói: ‘Dung mạo của chúng ta chuyển theo ý niệm, thể chất của chúng ta chuyển theo ý niệm, hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta cũng chuyển theo ý niệm’.  Tâm của bạn tốt thì tướng mạo của bạn đương nhiên sẽ tốt, thân thể của bạn sẽ tốt, hoàn cảnh cư trú cũng tốt, là do tâm chuyển cảnh giới, chẳng phải cảnh giới chuyển tâm.  [Khi nói về thời đại] hiện nay, Phật trong kinh thường nói đến chữ ‘điên đảo’, cái gì điên đảo?  Người thế gian đều bị hoàn cảnh chuyển, tâm người thế gian bị hoàn cảnh chuyển.  Hiện nay tai nạn [gì xảy ra, người ta] đều đổ thừa cho là  tai họa tự nhiên, chẳng liên can gì đến con người, đây tức là tâm bị cảnh chuyển, đây là sự sai lầm to lớn.

Chúng ta xem thời cổ, bạn coi lịch sử, thời xưa nếu trong xã hội xảy ra tai biến trọng đại thì những đế vương, đại thần, quan viên địa phương giống như thị trưởng, quận trưởng hiện nay, [tức là] những bậc lãnh đạo ở địa phương, họ đều trai giới, tắm rửa, giảm thiện (giảm phần ăn).  Lúc bình thường ăn cơm, như lúc vua ăn cơm, có lẽ quý vị có người cũng không biết, trên bàn ăn của vua nhất định phải có một trăm món ăn, chẳng kể là vua ăn hay không, đều không thể thiếu.  Giảm thiện là gì?  Giảm phân nửa.  Thật sự phản tỉnh, suy nghĩ lỗi lầm, đại xá thiên hạ, làm thêm chuyện tốt, hy vọng có thể chuyển đổi ý trời.  Chuyển đổi ý trời trên thực tế chính là hy vọng tâm địa hiền lành có thể biến đổi hoàn cảnh, chấm dứt kiếp nạn.  Người thời trước biết làm như vậy, người hiện nay không biết, người hiện nay cho rằng [tai nạn] chẳng liên can gì với mình, người thời trước biết.  Nhà Nho, Ðạo giáo, nhà Phật đều biết.  Chúng ta biết, phải bắt đầu làm từ bản thân mình.

Thế nên nhất định phải biết, ai có trách nhiệm đối với kiếp nạn thế gian?  Mình có trách nhiệm, mình chẳng tu hoàn hảo, mình chẳng làm tốt đẹp.  Ngày nay Phật giáo bị xã hội đại chúng hiểu lầm, chúng ta có thể trách người ta không?  Không thể trách họ.  Tại sao không thể trách người ta?  Người xuất gia chúng ta chẳng làm gương tốt.  Người trong thế gian chịu khổ lớn lao như vầy, gặp nạn lớn như vậy, là do ai tạo thành?  Do mình tạo thành.  Mình chẳng thiện, tâm mình chẳng thiện, hạnh của mình chẳng thiện, lời nói chẳng thiện nên gây nhiều khổ nạn cho con người.  Ngày nay nhìn thấy kiếp nạn này, tôi phải phản tỉnh, tôi có lỗi lầm to lớn, tội nặng, tôi phải sám hối.  Nếu người học Phật chúng ta ai nấy đều có giác ngộ như vậy thì Phật giáo làm sao không hưng vượng cho được, xã hội đại chúng làm sao không tiếp nhận được!   Con người ai nấy đều có thể giữ tâm tốt, làm chuyện thiện, thì kiếp nạn sẽ được hóa giải.  Kiếp này là tâm kiếp, căn nguyên là từ tâm, chẳng phải chi khác.  Thế nên ngày nay chúng ta đọc đoạn kinh này thì phải phản tỉnh sâu xa, đức Phật trong kinh đã giảng rõ nhân và quả.  Ngôn ngữ tuy chẳng nhiều, đúng là lời vắn tắt nhưng chứa đầy đủ ý nghĩa, bất luận là đối sự, đối lý, đều nói được viên mãn, rốt ráo phi thường.

Xin chư vị mở kinh, Khoa Chú trang 160, đếm ngược hàng thứ ba [từ phía dưới lên], xem kinh văn:

Phật cáo Tứ Thiên Vương, thiện tai, thiện tai.  Ngô kim vị nhữ cập vị lai hiện tại thiên nhân chúng đẳng quảng lợi ích cố, thuyết Địa Tạng Bồ Tát ư Sa Bà thế giới, Diêm Phù Đề nội sanh tử đạo trung, từ ai cứu bạt, độ thoát nhất thiết tội khổ chúng sanh phương tiện chi sự.
Phật bảo Tứ vị Thiên Vương rằng: ‘Lành thay, lành thay’.  Ta nay sẽ vì sự lợi ích rộng lớn của quý vị cùng các chúng trời người hiện tại và vị lai, mà nói việc Địa Tạng Bồ Tát ở thế giới Sa Bà, trong đường sanh tử nơi cõi Diêm Phù Đề, từ mẫn cứu vớt, phương tiện độ thoát tất cả chúng sanh tội khổ.

Bồ Tát nhận lời phó chúc của Phật, tiếp nhận sự ủy thác của Phật, đặc biệt là chúng sanh đời Mạt pháp ương ngạnh khó giáo hóa, lão nhân gia dùng vô tận từ bi, vô lượng trí huệ và phương tiện, hóa thân ở thế gian này.  Hóa thân của ngài, nam nữ già trẻ trong xã hội, các ngành các nghề thảy đều có, nếu chẳng là người minh nhãn (người mắt sáng) thì chẳng nhìn thấy, người minh nhãn thấy rõ ràng, thấy minh bạch, ở đó tạo ra phương tiện vô tận.  Không nhất định là thị hiện thân phận người xuất gia, hiện nay mọi người chẳng hiểu Phật pháp, đều cho rằng Phật pháp là mê tín, có chướng ngại nghiêm trọng.  Thị hiện người xuất gia giáo hóa chúng sanh có thể sẽ có nhiều chỗ không thuận tiện, Bồ Tát thị hiện thân phận tại gia rất nhiều, đều khuyến thiện, sửa lỗi.

Hôm qua có đồng tu từ Ðài Loan đến và đem những băng thâu hình, trẻ em đọc kinh.  Tôi nghe qua vài đoạn và rất cảm khái, những đại đạo lý của cổ thánh tiền hiền chẳng phải là học thuyết của cá nhân họ.  Có phải những gì Khổng Tử nói là học thuyết của ngài không?  Lời Lão Tử nói là học thuyết của ngài không?  Lời đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy có phải là học thuyết của ngài không?  Đều chẳng phải, đó là gì?  Học thuyết xứng tánh, là bản tánh của hết thảy chúng sanh, chân tâm của hết thảy chúng sanh, pháp vốn đầy đủ trí huệ đức năng của hết thảy chúng sanh, các ngài nói đều là những thứ này.  Nếu bạn nói đó là [học thuyết] của mỗi cá nhân họ thì bạn đã hiểu sai rồi.  Là trí huệ đức năng vốn sẵn có trong tự tánh chúng ta, thuần thiện chẳng tạp.  Nếu có thể phát huy được thì sẽ chân chánh đạt được ‘thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ’, những đại đạo lý này chẳng liên quan đến một cá nhân nào cả.  Tâm địa của họ thanh tịnh, từ bi, bác ái, họ đã nhìn thấy, Phật pháp gọi là minh tâm kiến tánh, họ đã nhìn thấy, chứng được.  Chúng ta mê hoặc điên đảo, chẳng nhìn thấy, chẳng chứng được.  Nếu chúng ta chứng được thì chẳng khác gì họ.  Phải làm sao mới có thể chứng được?  Phải phá ngã chấp, phá pháp chấp.  Làm cách nào để phá?  Niệm niệm vì chúng sanh, đừng nghĩ cho mình nữa; niệm niệm vì Phật pháp, sự nghiệp của chúng ta chính là Phật pháp.  Phật pháp là gì?  Phật là giác ngộ, pháp là phương pháp, phương pháp làm cho hết thảy chúng sanh giác ngộ thì gọi là Phật pháp.  Giúp cho hết thảy chúng sanh giác ngộ thì bạn đã hoằng dương Phật pháp.  Ngày nay chúng ta ở tại thế gian này, làm công việc này, công việc ngành nghề này nói theo cách nói hiện nay tức là người làm công tác giáo dục xã hội, nói như vậy thì mọi người dễ hiểu.

Năm xưa lúc đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, ngài làm công việc gì?  Giáo dục xã hội, vả lại còn là thiện nguyện, chẳng thâu học trò một đồng xu cắc bạc nào cả, hoàn toàn là nghĩa vụ, ngài là một người làm công tác giáo dục xã hội thiện nguyện.  Chúng ta là học trò của Phật thì phải nối tiếp huệ mạng của Phật.  Phật làm suốt cả đời, chúng ta là đệ tử học Phật nhiều đời kiếp sau, hết lòng làm theo, tiếp tục chẳng gián đoạn, nhất định phải làm cho hoàn hảo công tác giáo dục xã hội này.  Ðối tượng của giáo dục xã hội là hết thảy chúng sanh, chẳng phân biệt nam nữ, già trẻ, chẳng phân biệt sang hèn, giàu nghèo, cũng chẳng phân cõi trời cõi người, chín pháp giới chúng sanh đều đối đãi bình đẳng.  Chúng ta phải học ‘tác sư tác phạm’ (làm thầy, làm mô phạm), ‘sư’ là gương mẫu của xã hội đại chúng, ‘phạm’ là mô phạm.  Nếu chúng ta làm không được thì phải sanh tâm hổ thẹn.  Chúng ta giữ tâm [niệm như thế nào], tâm chúng ta có thể làm gương cho xã hội đại chúng không?  Ngôn hạnh của chúng ta có thể làm gương cho xã hội đại chúng không?  Phải thường suy nghĩ như vậy.  Phàm những gì không thể làm gương tốt cho xã hội đại chúng, tuyệt đối không được làm.  Những tâm niệm chẳng thể làm gương tốt cho xã hội đại chúng thì tuyệt đối chẳng thể khởi.  Như vậy mới có thể được chư Phật, Bồ Tát hộ niệm, chư Phật, Bồ Tát gia trì, long thiên thiện thần ủng hộ.  Chúng ta đề cao giáo dục xã hội, Tân Gia Ba có thể làm nên một chút thành tích này [là vì] cư sĩ Lý Mộc Nguyên, các vị đồng tu, những nhân viên cán sự dưới quyền ông ta, tứ chúng đồng tu chúng ta chẳng có tâm riêng tư.  Tại sao những chỗ khác làm không thành công?  Phật chẳng có tâm phân biệt, chẳng có yêu thích; Thiện Ðạo đại sư nói rất hay, đều là ‘gặp duyên chẳng đồng’.  Ðại chúng ở địa phương này, một lòng một dạ xả mình vì người, mỗi ngày đều nghĩ vì Phật pháp, vì chúng sanh, chẳng vì mình, cho nên được cảm ứng vô cùng thù thắng.  Ở đây chúng ta có thể cảm nhận cảm ứng này rất rõ ràng, hiển cảm hiển ứng [4], chẳng thể nghĩ bàn.

Chúng ta ở đây làm một gương tốt, người xuất gia làm người xuất gia gương mẫu, đạo tràng làm đạo tràng gương mẫu, hy vọng [những người] đến đây tham học chỉ đạo, sau đó xây dựng những gương mẫu này ở khắp mọi nơi trên thế giới.  Hy vọng [đạo tràng] họ xây dựng tốt hơn ở đây, ngạn ngữ thường nói: “Đến sau về trước”[5], câu này rất có đạo lý.  Tại sao đến sau vượt trội hơn trước?  Xây sau chắc chắn tốt hơn trước, đợt trước có khuyết điểm, thiếu sót thì xây sau có thể sửa đổi cho tốt hơn.  Cho nên càng về sau thì càng thù thắng, tốt hơn, được vậy mới có thể phổ độ chúng sanh, mới có thể hóa giải kiếp nạn của thế gian này.  Chúng tôi không hy vọng mọi người đến đây học xong chẳng muốn về, ở lại đây, như vậy không tốt.  Học xong cách làm việc của Cư Sĩ Lâm rồi trở về địa phương của mình tự làm lấy.  Xây dựng đạo tràng chánh pháp ở khắp nơi, được vậy thì thế gian này mới được cứu, các bạn thật sự học được, thật sự hiểu được ý nghĩa của Phật, ‘nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa’.

Giới thiệu Tứ Thiên Vương cho quý vị xong.  Thế Tôn nói với Tứ Thiên Vương, ‘cáo’ là lời người trên nói với dưới, những cách dùng chữ này chúng ta đều phải biết.  Hai chữ ‘Thiện tai, thiện tai’ có hai ý nghĩa, thứ nhất là khen họ hỏi rất đúng, rất hay, hỏi để đem lợi ích cho hữu tình.  Những Thiên Vương, Thiên Thần, chư vị nên biết, phần nhiều đều là Phật, Bồ Tát hóa thân, họ chẳng phải là quỷ thần.  Nếu thật sự là phàm phu thì chẳng hỏi những câu như vậy nổi.  Người có thể hỏi như vậy đều là Phật, Bồ Tát hóa thân thị hiện, đều chẳng phải là người thường.  Chữ ‘Thiện Tai’ thứ hai là khen ngợi họ, họ thiện hộ thế gian.  ‘Hộ thế’ quan trọng là ‘thiện hộ’, chữ này rất hy hữu, họ có phương tiện khéo léo.  Hộ trì thế gian, làm cho người thế gian giác ngộ, làm cho người thế gian đoạn ác tu thiện, như vậy mới gọi là ‘thiện hộ’.  Phật thuyết pháp ở nơi đó, chúng ta coi những gì nói trong kinh văn rất giống với tài liệu giảng thuyết của tôi.

‘Ngô kim vị nhữ cập vị lai hiện tại thiên nhân đẳng chúng’, thiên, nhân đẳng chúng tức là chúng sanh trong lục đạo, nói thiên và nhân, những cõi khác lược bớt, ‘đẳng’ tức là lục đạo, đặc biệt thương xót chúng sanh trong lục đạo.  Bạn nghĩ xem ngài ở hội giảng kinh tại cung trời Đao Lợi, ý nghĩa của Phật vô cùng rõ ràng, chẳng phải chỉ đại chúng hiện diện tại cung trời Đao Lợi lúc đó, pháp hội này lưu truyền về sau, những thính chúng chẳng hiện diện lúc đó không biết bao nhiêu mà kể?  Giống như hiện nay chúng ta đối diện trước máy thâu hình vậy, được truyền hình trên hệ thống vệ tinh, truyền đi khắp thế giới trên mạng lưới điện toán.  Hiện nay người nghe chúng ta giảng kinh, tương lai chúng ta vãng sanh, chẳng còn ở đây, băng thâu hình này vẫn được giữ lại, người đời sau vẫn còn nghe được.  Tôi nghe nói hiện nay kỹ thuật chế tạo những băng này rất cao, có thể giữ được hai trăm năm.  Chúng ta chẳng có thọ mạng dài như vậy, hai trăm năm sau người ta còn nghe được băng của chúng ta, còn nhìn thấy được màn ảnh này.  Thế nên chúng ta ở nơi đây giảng kinh thuyết pháp, mỗi cử chỉ hành động trong đời sống chúng ta, mỗi lời nói mỗi hành vi tối thiểu cũng phải giữ tròn trách nhiệm đối với thính chúng hai trăm năm sau.  Trong lời nói này của Thế Tôn đã hàm chứa những ý nghĩa như vậy.

‘Quảng lợi ích cố’, lợi ích rộng lớn khi giảng Địa Tạng pháp môn, tuyên dương Địa Tạng pháp môn, duy chỉ có Địa Tạng pháp môn mới có thể độ thoát chúng sanh trong chín ngàn năm Mạt pháp.  Đạo lý của Nho gia, Đạo giáo, Phật giáo Đại Thừa rất tốt nhưng hiện nay chẳng có người chịu nghe, chịu tiếp nhận.  Có thể niệm kinh một lần cũng kể là hay lắm rồi, có thể làm theo kinh thì chẳng có một ai.  Địa Tạng pháp môn là pháp môn căn bản, do đó nhiều năm trước tôi đi giảng ở những thành phố lớn dọc miền đông nước Mỹ, giảng đại ý kinh Địa Tạng.  Vì thời gian ngắn, mỗi nơi chỉ có bảy ngày, chẳng có cách chi giảng kinh, chỉ có thể giảng đại ý.  Có một số đồng tu hỏi tôi:

‘Pháp sư chuyên hoằng Tịnh Độ thì tại sao lại giảng kinh Địa Tạng?  Không phải đã xen tạp, đã xen tạp môn khác rồi sao?’.

Họ hỏi rất đúng.  Tôi nói: ‘Thiện tai, thiện tai, hỏi hay lắm.  Tôi vẫn đang giảng Tịnh Độ, vẫn chuyên tu chuyên hoằng’.

Họ nói” ‘Kinh Địa Tạng là gì?’

Tôi nói: ‘Kinh Địa Tạng là câu đầu tiên trong Tịnh Độ Tông’.

Họ hỏi: ‘Câu nào?’

Kinh Quán Vô Lượng Thọ giảng về Tam Phước, mọi người đều biết, là cơ sở của sự tu hành trong Tịnh Tông.  Trong Hạnh Môn chúng ta đề xướng: ‘Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Phổ Hiền Thập Nguyện’, mọi người đều biết cả.  Bộ kinh Địa Tạng này chính là phước thứ nhất trong Tam Phước: ‘Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu mười nghiệp thiện’.  Các bạn nghĩ xem kinh Địa Tạng có giảng về việc này không?  Tôi vẫn giảng về Tịnh Độ, chẳng tách lìa, vẫn chuyên tu, chuyên hoằng.  Nói vậy nên mọi người đều hiểu, bộ kinh này giảng kỹ về bốn câu trên.

Từ chỗ này chư vị cũng có thể thấu hiểu đến nghĩa thú của kinh Hoa Nghiêm.  Hoa Nghiêm nói ‘một tức là hết thảy, hết thảy tức là một’, nói cho chư vị biết, bất kỳ một kinh nào cũng bao hàm hết thảy kinh, hết thảy kinh đều có thể nhập vào một kinh.  Không những có thể nhập vào một bộ kinh, nói cho chư vị biết, có thể nhập vào ý của một câu.  Thí dụ nói chỗ này, Phật bảo Thiên Vương ‘Thiện tai, thiện tai’.  Hết thảy kinh Phật trong bốn mươi chín năm có thể nhập vào ‘Thiện tai’, Thiện Tai bao hàm hết thảy kinh, bao hàm hết thảy y cứ (căn cứ).  Hai câu ‘Thiện tai, Thiện tai’ cũng có thể nhập vào hết thảy kinh, hết thảy kinh cũng có thể nhập vào hai chữ này.  Pháp viên dung, tại sao?  Xứng tánh.  Nếu bạn có thể thấu hiểu tánh đức, tức là ‘một và nhiều chẳng hai’, lý sự viên dung, đâu có chỗ nào chướng ngại?  Phía sau nêu ra vài thí dụ.  Sau cùng:

Tứ đại thiên vương ngôn dụy nhiên, Thế Tôn, nguyện nhạo dục văn
Tứ đại Thiên Vương bạch rằng: ‘Vâng! Bạch đức Thế Tôn, chúng con xin muốn được nghe’.

Thế Tôn khen ngợi họ, họ đáp ‘dụy nhiên’.  ‘Dụy nhiên’ là lời đáp vô cùng cung kính, thái độ khải thỉnh đảm đương này đáng cho chúng ta học tập.  ‘Nguyện nhạo dục văn’ thì mới có được thọ dụng, chữ ‘nhạo’ này phải chân tâm tình nguyện, vui vẻ tiếp nhận, tiếp nhận thì phải y giáo phụng hành.  Nếu chẳng thể làm được thì bốn chữ ‘nguyện nhạo dục văn’ trở thành trống không, nhất định phải làm cho bằng được.  Xin xem tiếp:

Phật cáo Tứ Thiên Vương, Địa Tạng Bồ Tát cửu viễn kiếp lai ngật chí ư kim độ thoát chúng sanh do vị tất nguyện, từ mẫn thử thế tội khổ chúng sanh, phục quán vị lai vô lượng kiếp trung, nhân mạn bất đoạn, dĩ thị chi cố hựu phát trọng nguyện.
Đức Phật bảo bốn vị Thiên Vương rằng: ‘Bồ Tát Địa Tạng từ bao kiếp lâu xa đến nay, độ thoát chúng sanh vẫn chưa mãn nguyện, từ bi thương xót chúng sanh tội khổ ở đời này, lại quán thấy vô lượng kiếp về sau, nghiệp nhân cứ dây dưa chẳng dứt, vì lẽ đó nên lại phát trọng nguyện.

Trên thực tế Địa Tạng Bồ Tát ở đây hiện thân thuyết pháp dạy chúng ta, dạy chúng ta việc gì?  Dạy chúng ta phải không ngừng phát nguyện, thế nên trong khóa lễ sáng tối chúng ta đều phát nguyện.  Vãng Sanh Luận của Thiên Thân Bồ Tát, trong Ngũ Niệm Pháp Môn có ‘Phát nguyện’.  Phải thường phát nguyện, tại sao vậy?  Nếu ba ngày không phát nguyện thì quên ráo trọi.  Phàm phu nghiệp chướng tập khí quá nặng, bên trong có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bên ngoài có dụ hoặc của ngũ dục lục trần, chúng ta sinh sống trong hoàn cảnh này nếu không đọc kinh mỗi ngày, phát nguyện mỗi ngày thì chẳng giữ vững nổi, chúng ta sẽ bị những làn sóng này nuốt mất.  Nói cách khác, chúng ta nhất định sẽ sanh tử luân hồi y như cũ, chắc chắn sẽ đọa tam ác đạo, chúng ta phải cảnh giác từng giờ từng phút.  Trong những đợt sóng chập chùng này, trong những ngọn sóng mạnh mẽ này, chân chúng ta phải đứng cho vững, vừa sơ ý một chút liền bị cuốn trôi đi mất.  Làm thế nào chân mới có thế đứng vững chắc được?  Chính là Địa Tạng pháp môn.  Thế nên từ trước đến giờ, khi mỗi đạo tràng mới thành lập thì nhất định phải giảng kinh Địa Tạng trước hết, để chúng ta có một mảnh đất.  Đạo tràng này đã xây xong mà chưa giảng kinh này, nhân duyên kỳ này quá tốt, được lệnh của lão hòa thượng Nhân Đức, ngài là đại biểu cho Địa Tạng Bồ Tát của chúng ta hôm nay, Chúa Cứu Thế của chúng sanh đời Mạt pháp, chúng ta đi theo lão hòa thượng.  Chúng ta phải hoằng dương, phát triển rộng rãi pháp môn này, đạo tràng này mới xây, có thể ở đây giảng một bộ kinh Địa Tạng, phù hợp với bổn nguyện của chúng ta, vô cùng hy hữu.  Bộ băng thâu hình này sẽ được lưu thông rất rộng, giúp cho những đạo tràng mới xây dựng, chúng ta chẳng có cách chi phân thân, chẳng thể [trực tiếp] đến đó giảng kinh thì dùng bộ băng thâu hình này.

Chúng ta phải thể hội đến Bồ Tát từ nhiều kiếp lâu xa mãi cho đến nay, tại sao độ thoát cho những chúng sanh này nhưng vẫn chưa viên mãn đại nguyện của ngài, chính là như trong kinh nói: ‘Chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề ương ngạnh khó giáo hóa’.  Trong lục đạo, tình hình mỗi đạo đều giống nhau, Thiên Thai đại sư khai diễn Pháp Hoa, giảng ‘Trăm giới ngàn như’ cho chúng ta, đó là chân tướng sự thật, trong mỗi pháp giới đều có mười pháp giới.  Trong tâm chân thành của chúng ta khởi một niệm A Di Đà Phật thì đó là pháp giới Phật, khởi một niệm Địa Tạng Bồ Tát thì là pháp giới Bồ Tát, vừa khởi một niệm tham, sân, si thì đó là pháp giới tam ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.  Nghiệp nhân quả báo của thập pháp giới chuyển biến trong từng một niệm, đây là hiện tượng luân hồi, đây là nghiệp nhân căn bản của luân hồi.  Chúng ta tiếp nhận di giáo của Phật, có duyên đọc tụng kinh điển Đại Thừa, đây tức là Địa Tạng Bồ Tát độ chúng ta, kéo chúng ta ra khỏi tam ác đạo đến cõi nhân thiên, độ đến pháp giới Phật, Bồ Tát.  Tánh thức của chúng ta ương ngạnh, khó giáo hóa, vừa rời khỏi giảng đường, xếp cuốn kinh lại thì đọa lạc ngay, lại đọa lạc đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, không phải chúng ta mỗi ngày đều làm việc này hay sao?  Thế nên nhọc sức Địa Tạng Bồ Tát nhiều kiếp lâu xa đến nay, mỗi ngày đều phải phát nguyện, thương xót những chúng sanh tội khổ chúng ta.  Giác căn của chúng ta không vững, nguyện lực của chúng ta yếu ớt, lòng tin rất yếu mềm, chẳng chống chọi nổi phiền não tập khí.  Bồ Tát nhìn thấy vô cùng rõ ràng, ‘vô lượng kiếp trung, nhân mạn bất đoạn’, ‘nhân mạn’ là thí dụ, giống như cỏ bò lan dưới đất, nghiệp nhân của cỏ bò lan rất khó diệt tận.  Ví như phiền não tập khí của chúng ta, tạo nghiệp thọ báo, luân hồi vô tận, dùng bốn chữ này hình dung quá đúng.  Nhưng Bồ Tát vẫn chẳng nản chí, chẳng lùi bước, vẫn dốc hết tâm, hết sức giúp đỡ chúng sanh.  Nên Thế  Tôn nói tiếp:

Như thị Bồ Tát ư Sa Bà thế giới, Diêm Phù Đề trung, bá thiên vạn ức phương tiện nhi vi giáo hóa.
Bồ Tát ở thế giới Sa Bà, trong cõi Diêm Phù Đề, dùng trăm ngàn vạn ức phương tiện để giáo hóa.

Thế giới Sa Bà đặc biệt chỉ cõi Diêm Phù Đề, Diêm Phù Đề là địa cầu, Ngài có duyên sâu đậm với chúng sanh trên quả địa cầu chúng ta.  Ba nghiệp của Bồ Tát, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, chỉ có một mục đích là lợi ích hết thảy chúng sanh.  Trong các kinh điển đức Phật thường nói, thật sự đã nói ngàn lần, vạn lần, chúng ta vẫn chẳng nhớ y như cũ.  Phật dạy chúng ta ‘Thọ trì đọc tụng, vì người diễn nói’, chư vị thử nghĩ coi trong kinh, đức Phật đã nói câu này hết bao nhiêu lần?  Đã nói vô cùng khẩn thiết.  Trong kinh đức Phật giảng về những đạo lý, phương pháp, cảnh giới ấy, chúng ta phải thọ trì.  Trì là bảo trì, sau khi tiếp nhận xong thì phải bảo trì, chẳng đánh mất.  Làm sao tiếp nhận đạo lý mà Phật đã giảng?  Biến nó thành tư tưởng, kiến giải của mình trong sanh hoạt thường ngày, như vậy là chúng ta tiếp nhận rồi.  Cách suy nghĩ, cách nhìn của chúng ta giống như cách nói trong kinh Phật, chẳng trái nghịch, như vậy là chúng ta tiếp nhận ý tưởng, quan điểm của Phật.  Những phương pháp mà Phật giảng trong kinh biến thành hành vi trong đời sống của chúng ta, chúng ta phải làm cho bằng được.  Cảnh giới Phật giảng trong kinh biến thành sự hưởng thọ của chính mình ngay hiện tiền, nhập cảnh giới Phật.  Như vậy thì tự tại, khoái lạc biết mấy, đây là ‘tự thọ dụng’, tự thọ dụng chính là ‘tha thọ dụng’.  Biểu hiện trong cuộc sống của chúng ta là nêu gương cho người khác, tức là Diễn, nghĩa là biểu diễn cho người khác coi.  Nói được thì phải làm được, làm ra cho người ta xem, đích thật là gương mẫu của xã hội đại chúng, là mô phạm của xã hội đại chúng.

Trong hai năm gần đây chúng ta giảng kinh hoằng pháp ở mọi nơi, chúng ta có một đề mục chung ‘Học vi nhân sư, hành vi thế phạm [6], chúng ta dùng tám chữ này làm đề mục chung.  Mọi người vừa nhìn đề mục này không đến nỗi hiểu lầm chúng ta là mê tín, hiểu lầm là chúng ta đang làm việc tôn giáo [7].  Chúng ta làm sao có thể đem Phật giáo trở về làm giáo dục xã hội, bốn chúng đệ tử trong nhà Phật là người làm công tác giáo dục xã hội, Phật pháp mới có thể phổ biến lợi ích hết thảy chúng sanh.  Lời này là như thế nào?  Các tôn giáo tín ngưỡng khác nhau đều cùng đến học Phật, các văn hóa chủng tộc khác nhau cũng ưa thích học Phật thì Phật pháp mới có thể đem lại lợi ích cho hết thảy chúng sanh.  Nếu nói Phật giáo là tôn giáo thì các tôn giáo chẳng thể dung nạp, tiếp nhận.  Nhưng Phật pháp là giáo dục xã hội, chúng ta xóa bỏ giới hạn của tôn giáo thì bất kỳ tín đồ tôn giáo nào cũng có thể học Phật, đều có thể làm đệ tử của Phật, đều chẳng mâu thuẫn với tín ngưỡng của tôn giáo họ.

Giống như sự thị hiện trong kinh Hoa Nghiêm, Bà La Môn, Bà La Môn giáo chẳng phải Phật giáo.  Biến Hành ngoại đạo cũng là tôn giáo khác, cũng chẳng phải Phật giáo, đều là Bồ Tát.  Bồ Tát thị hiện trong những hành nghiệp của họ, giáo hóa những hạng chúng sanh ấy, chúng ta phải hiểu đạo lý này.  Thế nên chúng ta gặp Cơ Đốc Giáo phải tán thán, chúng ta gặp Mục Sư cũng chắp tay kính chào Mục Sư Bồ Tát, gặp người đạo Hồi chúng ta chắp tay cung kính A Hoanh [8] Bồ Tát, họ đều là Bồ Tát cả.

Họ hỏi tôi: ‘Ông xưng tôi là Bồ Tát là có ý nghĩa gì?’.

‘Bồ Tát là một người có trí huệ, người giác ngộ thì gọi là Bồ Tát.  Bạn có trí huệ hay không, giác ngộ không?’

Họ gật đầu.  ‘Vậy thì bạn là Bồ Tát’.

Thân phận của bạn là A Hoanh, thì bạn là A Hoanh Bồ Tát; thân phận hiện nay của bạn là Mục Sư thì bạn là Mục Sư Bồ Tát.  Trong kinh Phật, thân phận của bạn là đồng nam, đồng nữ thì bạn là đồng tử Bồ Tát, đồng nữ Bồ Tát; thân phận của bạn là Tể Quan thì bạn là Tể Quan Bồ Tát.  Phàm là người có trí huệ, giác ngộ rồi đều xưng là Bồ Tát.  Bồ Tát nhất định chẳng phải khắc, chạm trổ bằng gỗ, bằng đất nặn, cúng ở trong chùa để cho người ta lạy, cách suy nghĩ và cách nhìn như vậy là sai lầm.  Đó đều là tiêu biểu pháp, Bồ Tát là sống chứ chẳng chết.  Người người đều làm Bồ Tát thì thiên hạ sẽ thái bình, tai nạn sẽ hóa giải hết.  Vì thế, giáo dục của đức Phật là một nền giáo dục xã hội viên mãn nên được phổ cập trên thế gian này, mục đích rốt ráo của nó là chuyển phàm thành thánh, đó là mục tiêu của nền giáo dục này.  Hết thảy mọi người đều thành Bồ Tát, mọi ngành mọi nghề đều là Bồ Tát thì xã hội làm sao có tai nạn được?  Cảnh tùy tâm chuyển, chúng ta phải hiểu đạo lý này.  Chư Phật, Bồ Tát dùng vô lượng pháp môn, phương tiện giúp đỡ chúng sanh đang chịu khổ nạn.

Phải biết cách tùy cơ thuyết pháp, những Bồ Tát nói trong kinh, chư Phật, Bồ Tát nên dùng thân gì để độ được thì hiện thân ấy.  ‘Được độ’ là như thế nào?  Dùng cách nói hiện nay nghĩa là nên dùng thân phận gì để giúp đỡ họ thì bạn thị hiện thân phận ấy, ‘độ’ nói theo cách nói hiện nay tức là ‘giúp đỡ’.  Nên nói cho họ pháp môn gì thì bạn nói pháp môn ấy cho họ, thế nên ‘xem xét căn cơ’ rất quan trọng.  Kinh Dịch của cổ nhân Trung Quốc nói: “Quán sát thiên văn để biết thời thế biến đổi” [9].  Thiên văn là gì?  Mỗi đêm ngước nhìn sao trên trời gọi là Thiên Văn.  Lời thánh nhân sâu rộng vô cùng, nhiều người chẳng biết, họ nhìn ‘thiên văn’?  Mỗi đêm họ đều quan sát bầu trời coi những ngôi sao có biến hóa gì chăng.  Đó là gì?  Chẳng hiểu ý của thánh nhân.  ‘Thiên’ là thiên nhiên, tức là tự nhiên.  Văn là văn chương.  Chữ ‘văn’ trong bộ ‘Thuyết Văn Giải Tự’ [10], ý của chữ ‘văn’ này là gì?  Vẽ một nét gọi là ‘văn’.  Nghĩa là bạn quán sát hiện tượng của thế gian, Thiên Văn tức là hiện tượng xã hội, từ các hiện tượng trong xã hội bạn có thể cảm nhận được thế giới này có thay đổi gì?  Phía trước tôi đã giới thiệu cho các bạn về Tứ Đại Thiên Vương, Tây Phương Quảng Mục thiên vương tiêu biểu cho ý nghĩa này.  Ngài biết nhìn, biết quán, biết xem xét, rành quán sát.  Trên tay ngài cầm rồng, rắn, rồng rắn tiêu biểu cho biến hóa.  Tay kia cầm hạt châu, hạt châu tượng trưng cho sự chẳng thay đổi trong biến hóa.  Nắm vững được nguyên tắc chẳng biến đổi thì có thể ứng phó được sự thay đổi này, Kinh Dịch cũng nói như vậy.

Chúng ta biết nhìn không?  Chúng ta thường ngồi xe, rất ít đi tản bộ, đi ngắm cảnh, đi du lịch.  Ngồi xe, đi bộ trên đường phố, bạn nhìn thấy hiện tượng gì?  Bạn thấy hiện nay những quảng cáo, xem những hình ảnh vẽ trên xe hơi hay xe bus công cộng, xem quần áo của người trẻ tuổi, [những thứ] như vậy là ‘thiên văn’.  Trong tâm chúng ta hiểu rõ rồi, hiểu rõ cái gì?  Trong kinh Phật nói, trong kinh Lăng Nghiêm nói: ‘Tà sư thuyết pháp như cát sông Hằng’, [các quảng cáo, hình ảnh] đó tức là tà sư.  Làm cho [những cảnh giới] được tiếp xúc bởi sáu căn của người thế gian đều là cảnh giới yêu ma quỷ quái.  Làm cho người thế gian khi lục căn tiếp xúc đến đều là cảnh giới yêu ma quỷ quái.  Họ sống cuộc đời như thế nào?  Đời sống của yêu ma quỷ quái.  Bồ Tát nhìn thấy những hiện tượng này, lòng thương xót bèn sanh khởi.  Làm thế nào để cứu độ họ?  Chúng ta làm những áo thun, những áo các bạn mặc, trên đó in chữ ‘A Di Đà Phật’, in danh hiệu của Phật, Bồ Tát, in chữ ‘Tri Ân Báo Ân’; số lượng của chúng ta ít, số lượng của họ quá nhiều.  Chúng tôi nghĩ ra một cách, nhờ những người hiểu biết, những người thật sự phát tâm Bồ Đề, chúng ta phải dùng những phương pháp này, tuyên truyền rộng rãi.  Chúng ta diễn giảng với quy mô lớn và tặng quần áo, tặng cho những người trẻ tuổi ai cũng mặc, cả đường phố đều [nhìn thấy hàng chữ] A Di Đà Phật, đều thấy Quán Thế Âm Bồ Tát, như vậy rất tốt.

Cổ đức có câu: ‘Người biết rõ vận mạng chẳng oán trời, người biết rõ về mình chẳng trách người’ [11], do đó có thể biết trong xã hội hiện nay rất nhiều người ‘oán trời trách người’, người ‘oán trời trách người’ quá nhiều, ai cũng cảm thấy mình chẳng có lỗi lầm, [họ nghĩ] đều là lỗi lầm của kẻ khác.  Không những không biết vận mạng, ngay cả chính mình cũng chẳng biết.  Thế nên giáo học Phật pháp, Phật dạy những gì?  Chân tướng sự thật của nhân sinh.  Vũ trụ là hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta, ‘nhân sanh’ tức là chính mình, giáo học của Phật giáo chẳng có gì khác ngoài việc dạy bạn chân chánh biết rõ về mình, nhận thức mình, hiểu rõ hoàn cảnh sanh hoạt của mình.

Có thể hiểu rõ chân tướng này rồi thì bạn sẽ là Bồ Tát, bạn sẽ là Phật; Phật, Bồ Tát chỉ là người hiểu minh bạch mà thôi.  Trước kia lão pháp sư Đàm Hư cũng thường nói một người minh bạch nhất định không oán trời, chẳng trách người, người ấy mới có thể tiếp nhận lời dạy của đức Phật, mới vui vẻ y giáo phụng hành.  Trong nghịch cảnh gặp khổ nạn cùng cực, họ vẫn muốn nêu gương tốt, trong mỗi niệm đều có thể xả thân vì người khác.  Nhìn thấy lỗi lầm của phần đông xã hội đại chúng ở đâu?  Xã hội đại chúng tham tiền thì Bồ Tát thị hiện xả tiền; xã hội đại chúng tranh danh đoạt lợi thì Bồ Tát thị hiện buông bỏ danh lợi.  Tại sao phải làm như vậy?  Cách làm này tức là giáo học.  Vì người diễn nói, biểu diễn cho họ thấy.  Bồ Tát sống trong thế gian này chẳng vì mình, mà vì chúng sanh, là đến để diễn kịch.  Hy vọng tuồng kịch này có thể làm cho người xem giác ngộ, hiểu rõ, làm cho họ quay về, không bao giờ vì mình?  Biểu diễn cho người khác.  Đây là đại từ đại bi, đây là tinh thần của Địa Tạng Bồ Tát.  Hôm nay chúng ta xem tiếp kinh văn:

Tứ Thiên Vương
Tứ thiên vương.

Đây là lời Phật kêu tên của họ.  Kêu tên, lời khai thị sau đó vô cùng quan trọng, kêu tên là để nhắc họ.

Địa Tạng Bồ Tát, nhược ngộ sát sanh giả thuyết túc ương đoản mạng báo.
Địa Tạng Bồ Tát nếu gặp kẻ sát sanh thì dạy rõ quả báo vì tai ương đời trước mà phải chết yểu.

Sau đây nêu ra vài trường hợp.  Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa chúng sanh dùng phương tiện khéo léo, chúng ta phải học.  ‘Ương’ là tai ương, tai nạn trong đời rất nhiều, thường gặp quả báo chuyện gì cũng không vừa ý, bịnh khổ, chết yểu.  Vì nguyên nhân gì?  Sát sanh, sát nghiệp quá nặng.  Tự chúng ta cũng cảm thấy trong đời này chúng ta bị bịnh nhiều, thường thường bị bịnh đau, phải biết nguyên nhân là gì?  Sát nghiệp.  Đời này tuy chẳng tạo sát nghiệp, nhưng đời trước đã tạo.  Trong kinh đức Phật nói, nói sự thật.  ‘Muốn biết nhân đời trước thì những gì phải gánh chịu trong đời này chính là kết quả của những nhân ấy’, những gì mình chịu trong đời này đều là do nhân tạo đời trước.  Bạn phải hiểu rõ sự thật, ngày nay bất luận chúng ta chịu tai nạn gì thì cũng nên tiếp nhận một cách vui vẻ, đời trước tạo nhân chẳng tốt thì bây giờ phải chịu quả báo.  Hứng chịu quả báo chẳng oán trời, chẳng trách người thì khi thọ hết, khóa sổ kết thúc.  Nếu bạn chịu quả báo mà còn oán trời trách người thì phiền phức lớn lắm.  Đời này chịu quả báo lại tạo thêm ác nghiệp, đời sau vẫn phải tiếp tục chịu, dây dưa chẳng dứt.  Cho nên khi bạn hiểu rõ rồi, những gì chúng ta nhận chịu đến đời này chấm dứt, sổ nợ trả dứt, báo hết.  Đời này nỗ lực tu thiện, nhất định không sát sanh.  Không những không sát sanh, mà còn không làm việc não hại chúng sanh.  Không những không thể làm, phải không có ý niệm này, được vậy thì quả báo tương lai của chúng ta sẽ thù thắng.  Đời này thời gian rất ngắn, cho dù sống đến một trăm tuổi thì một khảy ngón tay bèn trôi qua, thời gian đi qua rất mau, đọc đến câu này, nhất định không thể sát sanh, chúng ta nhìn thấy những người thọ báo trong thế gian liền biết được.  ‘Muốn biết quả báo đời sau, những gì mình làm đời này chính là nó’, chúng ta khởi tâm động niệm, hết thảy tạo tác là quả báo đời sau, nhân duyên quả báo tơ hào chẳng sai.

Nhược ngộ thiết đạo giả thuyết bần cùng khổ sở báo
Nếu gặp kẻ trộm cắp thì dạy rõ quả báo bần cùng khổ sở.

Hiện nay có nhiều chỗ lạc hậu như Phi Châu, chúng ta thường xem báo cáo người bên đó chịu nỗi khổ đói lạnh, đó là cộng nghiệp, họ chẳng biết quả báo chắc chắn phải có nhân.  Nhân của sự đói lạnh, bần cùng, khổ sở là trộm cắp.  Phạm vi của ‘trộm cắp’ vô cùng rộng lớn, định nghĩa trong Phật pháp là ‘không cho mà lấy’, đồ đạc của cải có chủ, chủ chẳng cho bạn, bạn bèn lấy đi thì gọi là trộm cắp.  Còn phương thức trộm cắp rất nhiều; có một số người đem vật cho nhưng chẳng phải cam tâm tình nguyện mà bị ép bức nên phải đem cho; bạn có quyền uy, thế lực nên không thể không nịnh hót bạn, tâng bốc bạn, đó cũng là trộm cắp.  Hễ dùng những thủ đoạn, tâm lý không chánh đáng, những gì bạn đạt được đều gọi là trộm cắp.  Phạm vi này rất rộng, Giới Kinh nói rất tường tận, [trộm cắp sẽ] bị quả báo này.

Nhược ngộ tà dâm giả, thuyết tước cáp uyên ương báo
Nếu gặp kẻ tà dâm thì nói rõ quả báo làm khổng tước, bồ câu, uyên ương.

Chữ ‘tước’ ở đây, trong chú giải của Thanh Liên đại sư đặc biệt ghi rõ là khổng tước (chim công).  Nói cách khác, quả báo của tà dâm là sanh vào cõi súc sanh.  Bạn muốn sanh vào cõi súc sanh không?  Nếu không muốn sanh vào cõi súc sanh thì nhất định đừng trồng nhân ấy.  Thế nên Bồ Tát ở phía trước nói về mười cõi ác, trong Tam Phước dạy chúng ta tu mười nghiệp thiện, khi tu mười nghiệp thiện thì những quả báo chẳng thiện sẽ không còn nữa.  Nếu bạn không tu mười nghiệp thiện, lại còn tạo mười nghiệp ác thì chắc chắn sẽ không tránh khỏi quả báo ác.

Nhược ngộ ác khẩu giả, thuyết quyến thuộc đấu tranh báo.
Nếu gặp kẻ nói lời thô ác, thì dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống nhau.

Chúng ta cũng thường thấy người trong cùng một nhà cãi lộn, [đúng là] chẳng phải oan gia thì chẳng gặp nhau.  Tại sao người trong một nhà thường chẳng hòa hợp?  Đây là quả báo đời trước nói lời thô ác.  Nếu trong đời này vẫn không sửa đổi thì còn phiền phức hơn nữa, nhà người ấy làm sao hòa hợp được?  Ngạn ngữ thường nói: ‘Nhà hòa hợp thì vạn sự hưng vượng’, nhà chẳng hòa thì chắc chắn sẽ suy bại.

Nhược ngộ hủy báng giả, thuyết vô thiệt, sang khẩu báo.
Nếu gặp kẻ hủy báng, thì nói rõ quả báo không lưỡi, miệng lở.

Khẩu nghiệp có bốn loại, đặc biệt nêu lên ‘nói lời thô ác’.  Phía sau ‘hủy báng’ bao gồm ‘nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói thêu dệt’ trong ấy.  Hủy báng, đặc biệt là hủy báng Phật pháp, nhưng chư vị nên biết hiện nay hơn phân nữa xã hội cho rằng ‘Phật giáo là tôn giáo, tôn giáo là mê tín, trong hết thảy tôn giáo thì Phật giáo là mê tín nhất, thuộc về hạng thấp nhất’.  Tại sao vậy?  Tôn giáo hạng cao chỉ có một vị Thần, duy nhất chỉ có một Chân Thần, [họ cho rằng] ‘Phật giáo là Đa Thần Giáo, đạo nhiều thần, cái gì cũng lạy, nên cho rằng là tôn giáo hạng thấp, chẳng ai coi trọng’.  Do đó làm cho quảng đại quần chúng trong xã hội hủy báng, họ tạo nghiệp này dễ sợ lắm.  Họ hủy báng như vậy, chúng ta có thể trách họ chăng?  Chẳng thể, phải trách chúng ta, chúng ta chẳng giải thích rõ ràng, chẳng giảng minh bạch, làm cho họ hiểu lầm.  Thế nên khi chúng ta gặp người hủy báng Phật pháp thì phải quay lại trách chính mình, chẳng thể trách họ.  Họ chẳng tìm hiểu rõ, chẳng hiểu chân tướng sự thật, chúng ta có trách nhiệm.  Nhưng sự hủy báng của họ chắc chắn sẽ có quả báo, chúng ta phải giúp họ sám hối, nhận thức Phật giáo, nhận thức Đại Thừa.  Như trong lịch sử có ghi Thiên Thân Bồ Tát lúc bắt đầu học Tiểu Thừa, hủy báng Đại Thừa, sau này anh của ngài là Vô Trước Bồ Tát giảng giải cho ngài hiểu rõ, ngài bèn sám hối, phát nguyện cắt lưỡi của mình.  Anh ngài nói: ‘Không cần, trước kia em dùng lưỡi này hủy báng Đại Thừa, bây giờ hãy dùng lưỡi này để tán thán Đại Thừa, như vậy có phải tốt hơn không!’.  Cho nên kể từ đó ngài bèn tán thán Đại Thừa, tuyên dương Đại Thừa, đây là pháp môn sám hối, sửa đổi thành mới nên ngài được độ.  Chúng ta phải cứu độ những chúng sanh tạo khẩu nghiệp này, chẳng có chi khác ngoài việc dốc hết tâm lực để tuyên dương Đại Thừa, giúp cho họ nhận thức rõ ràng bộ mặt [ý nghĩa] chân chánh của Phật pháp, làm cho họ quay trở lại, không những không hủy báng mà còn tán thán.

Tôi giảng kinh thuyết pháp trên giảng đài này hết bốn mươi năm.  Năm ba mươi ba tuổi tôi bắt đầu giảng kinh, năm nay đã bảy mươi hai tuổi, nếu tính hư tuế thì đã bốn mươi năm rồi.  Vẫn còn rất nhiều người hủy báng, tôi đều tiếp nhận hết, tại sao?  Vì đã tạo khẩu nghiệp quá sâu đậm.  Lúc chưa học Phật đã hủy báng Phật pháp, tôi đã nói Phật pháp là mê tín.  [Lúc đó] tôi chỉ tin Cơ Đốc Giáo, tin Hồi Giáo, tôi đã trải qua hai năm trong Cơ Đốc Giáo, một năm trong Hồi Giáo, ấn tượng của tôi đối với cả hai đạo ấy rất tốt, cả hai đều có thể nói ra một số đạo lý.  Trong Phật pháp thì tôi chẳng [có cơ hội] tiếp xúc với Pháp sư, chẳng có người giảng cho tôi, nói rõ đạo lý của Phật pháp nên tôi chẳng biết.  Tôi cũng cho rằng Phật pháp là mê tín, phải phá trừ mê tín.  Tôi tạo ra nghiệp rất nặng, ‘làm thân Phật ra máu’ là tội nghiệp đọa địa ngục Vô Gián.  Lúc nhỏ tuổi vô tri, thời kháng chiến [chống Nhật]  trường học rất ít, trường học lúc ấy ở đâu?  Ở trong chùa miếu.  Chính phủ tịch thâu chùa miếu để làm trường học, đem chánh điện làm lễ đường, điện nhỏ kế bên thì làm phòng học.  Họ đem tượng Phật, tượng Bồ Tát gom lại bỏ trong một gian phòng, bên ngoài dán giấy phong kín lại, như vậy kể cũng còn tốt.  Con nít chúng tôi nghe nói trong ấy có rất nhiều Phật, Bồ Tát, có thể lấy để chơi đùa, bèn đục lỗ trên cửa sổ chui vào, lấy tượng Phật làm đồ chơi, chơi đã xong rồi vứt bỏ, phá hoại hết.  Do hiếu kỳ nên chẻ tượng Phật bằng gỗ ra coi trong ấy có gì hay không, trong bụng [tượng Phật] có sợi tơ gì hay không, chơi rất nhiều trò, còn chơi bùa chú nữa.  Chúng tôi tạo những tội nghiệp này, lúc đó còn nhỏ chẳng biết.  Thầy giáo cũng chẳng dạy, nói thật ra, nếu nói thì chúng tôi chưa chắc sẽ nghe theo, cứ tiếp tục tạo tội nghiệp hủy báng Phật pháp.  Sau này học Phật rồi mới biết, đây là tạo tội nghiệp đọa địa ngục Vô Gián.  Ngày nay tôi giảng kinh thuyết pháp được bốn mươi năm, vẫn còn bị người ta hủy báng, sỉ nhục, như vậy là đáng lắm, là tội nặng nhưng chỉ bị quả báo nhẹ mà thôi.

Lúc nhỏ tôi đi học rất ngỗ nghịch, thầy giáo rất thích tôi, nhưng thầy cũng rất khó dạy dỗ tôi.  Sức nhớ dai của tôi rất tốt, sách đọc qua một lần bèn thuộc lòng thế nên chẳng đọc tiếp nữa, chỉ đọc để thi cử mà thôi.  Mười phút trước giờ thi nếu tôi coi bài, ôn qua một lượt thì chắn chắn sẽ thi đậu.  Vả lại, tôi thi cử gì cũng chỉ muốn được sáu mươi điểm, thêm một điểm cũng chẳng được.  Tôi chẳng tranh danh, chẳng đoạt lợi, luôn luôn đem bài nộp trước nhất.  Thầy giáo coi xong đều lắc đầu, có thể lấy được điểm tốt nhưng đều không chịu lấy, tại sao?  Vì ham chơi.  Chỉ cần cho tôi mỗi năm được lên lớp là tốt rồi, như vậy là đã đạt được mục đích, yêu cầu của các bạn không phải cũng chỉ là như vậy sao?  Thầy giáo yêu cầu gia trưởng, tôi đều làm cho họ mãn nguyện.  Nhưng tôi thích làm những việc tôi ưa thích.  Tôi đọc rất nhiều sách, nhiều hơn các bạn đồng học.  [Từ] thư viện trong trường, tôi đọc những sách tôi ưa thích nên kiến thức phổ thông của tôi phong phú hơn người thường.  Từ lớp ba cấp tiểu học tôi bắt đầu đọc những tiểu thuyết xưa của Trung Quốc, đọc đến năm thứ nhất của bậc Trung Học bèn thôi, chẳng đọc tiếp nữa.  Những tiểu thuyết hay hầu như tôi đều đọc qua bốn, năm lần, thí dụ bốn tiểu thuyết lớn như Tây Du Ký, Tam Quốc Diễn Nghĩa, Thủy Hử Truyện, Hồng Lâu Mộng đại khái mỗi bộ đều đọc hết năm, sáu lần.  Hơn nữa những sách dầy như vậy, tôi đọc nhanh lắm, chẳng tới một tuần là tôi đọc hết trơn.  Tiểu thuyết cổ điển đọc hết rồi, đến năm thứ nhất của bậc Trung Học bèn chẳng đọc nữa.  Ban ngày đọc tiểu thuyết, ban đêm đi coi kịch.  Đời học sinh của tôi thật là thú vị, các thầy của chúng tôi đều biết, hiệu trưởng cũng biết.  Tôi nói với hiệu trưởng, trường học hiện nay chẳng qua là chỗ để kiếm văn bằng, kiếm học vị mà thôi, những gì học xong chẳng dùng được, tôi học những thứ này tương lai có dùng được gì không?  Thầy tôi cũng chịu tôi hết nổi, tạo nghiệp quá nhiều.  Nhưng kể ra cũng có một chút thiện căn là chẳng hại người khác, chẳng gây hại cho xã hội.

Sau khi tiếp xúc Phật pháp mới biết, mới hiểu được đạo lý này nên nỗ lực đoạn ác tu thiện.  Lúc tôi chưa học Phật nhiều người coi bói đều nói tôi chẳng sống hơn bốn mươi lăm tuổi, tự mình tôi cũng tin, chẳng nghi ngờ gì cả.

Tại sao?  Đã tạo những nghiệp lúc trước làm sao có thể sống lâu được?  Thế nên năm bốn mươi lăm tuổi, tôi mắc bịnh cũng chẳng đi khám bác sĩ, cũng chẳng uống thuốc, giống như ông Lý Mộc Nguyên vậy, thọ mạng đã đến, bác sĩ chỉ có thể trị bịnh, chẳng thể trị mệnh, chỉ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.  Niệm được một tháng thì hết bịnh, khoẻ trở lại.  Chúng tôi hồi tâm chuyển ý, đem một chút trí huệ, khả năng, thân thể này hoàn toàn hiến dâng cho Phật, Bồ Tát, làm việc cho Phật, Bồ Tát, chẳng vì mình nữa.  Nhà Phật thường nói ‘nương theo nguyện trở lại’ (thừa nguyện tái lai), chúng tôi chuyển biến nghiệp lực thành nguyện lực, chẳng cần đợi đến lúc vãng sanh tây phương Cực Lạc thế giới rồi quay trở lại, chẳng cần nữa.  Hiện nay thay đổi nghiệp lực thành nguyện lực thì xong ngay, thì sẽ thừa nguyện tái lai.  Tôi ‘thay đổi’ được hiệu quả rất tốt, Lý Mộc Nguyên thay đổi cũng rất có hiệu quả, đều là biểu diễn cho các bạn xem.  Hai người chúng tôi làm được thì các bạn đều có thể làm được, chỉ coi bạn chịu hay không chịu mà thôi.  Vừa thay đổi thì ý niệm liền thay đổi, khởi tâm động niệm đều vì Phật pháp, vì chúng sanh, tuyệt chẳng có một tâm niệm vì mình.  Tôi vì Phật pháp, vì chúng sanh nhưng tôi còn vì mình được không?  Không được.  Nhất định phải một trăm phần trăm vì Phật pháp, một trăm phần trăm vì chúng sanh, nhất định chẳng thể có một tơ hào vì mình thì bạn có thể chuyển đổi trở lại, vả lại sẽ chuyển rất nhanh chóng.  Chúng ta tham gia ‘câu lạc bộ’ của Phật, Bồ Tát, tham gia hạnh nghiệp này của Phật, Bồ Tát thì đâu có lý nào chẳng thể chuyển đổi được?  Còn phải học giảng kinh thuyết pháp không?  Chẳng cần học.  Học ư?  Có học cũng chẳng được.  Tâm của bạn giống như tâm Phật thì tự nhiên sẽ tỏ lộ.  Chẳng phải do bạn chuẩn bị sưu tập tài liệu thì bạn mới biết giảng, chẳng có chuyện ấy.  ‘Pháp vốn là như vậy’ [12], từ trong tự tánh thể hiện ra, chúng ta phải hiểu đạo lý này.  Trong ‘Nội Điển’ [13] chư vị bất quá là học một số phương pháp căn bản.  Chúng ta là người sơ học chưa nhập cảnh giới của Phật nhất định phải dùng cách nói của Tổ sư đại đức để nói, chẳng nói sai những lời của họ.  Nhưng tự mình chân chánh phát tâm hoằng pháp lợi sanh nhất định phải nhập cảnh giới.  Chẳng nhập cảnh giới thì chỉ là ‘nói đồ ăn, đếm của báu’, hoàn toàn là đồ của người khác, chẳng liên quan gì đến mình cả.  Muốn nhập cảnh giới thì phải triệt để buông xuống, buông xuống thì tự nhiên sẽ nhìn thấu.  Nhìn thấu là gì?  Hiểu rõ rồi.  Tánh – Tướng, Lý – Sự, Nhân – Duyên, Quả – Báo đều rõ ràng, minh bạch, đó gọi là nhìn thấu, là sự việc như thế.  Xem tiếp đoạn kinh phía sau:

Nhược ngộ sân khuể giả, thuyết xú lậu lung tàn báo.
Nếu gặp kẻ nóng giận, thì nói rõ quả báo xấu xí, tàn tật.

Quả báo của ‘Sân khuể’ là ở địa ngục, những hiện tượng trong địa ngục, chúng ta xem ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’ nói trong Phật pháp, sau đó coi những tôn giáo khác cũng có nói về Địa Ngục Biến Tướng Đồ.  Tuy các tôn giáo khác chẳng nói về lục đạo, ít nhất họ cũng nói về tam đạo, họ nói về Thiên Đường, cõi người, và địa ngục.  Tranh vẽ hình tượng trong địa ngục chẳng có thứ nào đẹp đẽ, hình trạng đều vô cùng kinh khủng, ‘xú lậu lung tàn’, đây là việc chúng ta phải nên cảnh giác.  ‘Một tâm niệm sân giận khởi lên, trăm vạn cánh cửa chướng ngại mở ra’.  Xấu xí, tàn tật là hoa báo, địa ngục là quả báo, chẳng thể không biết.  Nếu tướng mạo chúng ta là xấu xí, tàn tật thì biết tâm sân giận nặng, tâm đố kỵ nặng.  Nếu chúng ta có thể sửa đổi trở lại, phát tâm từ bi, có thể thương xót hết thảy chúng sanh, yêu mến bảo vệ hết thảy chúng sanh, lo lắng cho hết thảy chúng sanh, giúp đỡ hết thảy chúng sanh thì tướng mạo sẽ thay đổi.  Thế nên bạn tu hành có công phu hay chăng, chẳng xem gì khác chỉ xem tướng mạo của bạn.  Coi tướng mạo, thể chất của bạn ba năm trước và ba năm sau, tướng tùy tâm chuyển.  Tâm địa của bạn thanh tịnh thì sẽ có tướng thanh tịnh; tâm địa từ bi thì sẽ có tướng từ bi; tâm địa trí huệ thì sẽ có tướng trí huệ; tâm địa ác độc thì sẽ có tướng ác độc, làm sao có thể gạt người được?  Giả vờ cũng chẳng thể giả vờ được.

Người đời ưa thích đẹp phải đi sửa sắc đẹp, càng sửa thì càng xấu.  Tôi đã thấy rất nhiều người sửa sắc đẹp, chưa sửa thì còn được, sau khi sửa rồi thì tướng mạo biến thành kỳ lạ, chẳng dễ nhìn tí nào.  Tướng đó là gì?  Là tướng giả, tâm chẳng chuyển.  Thế nên phải biết tướng làm sao tạo nên, tạo được đẹp cách mấy, nếu tâm chẳng tốt thì tướng tốt đẹp cũng biến thành tướng xấu xí.  Hiểu được đạo lý này thì hà tất phải đi sửa sắc đẹp để tốn tiền lãng nhách?  Phải sửa đổi tâm, tâm đổi rồi thì tướng sẽ đổi theo.

Thân thể cũng chẳng cần tìm thuốc men, tẩm bổ gì cả, chẳng cần, tâm tốt rồi thì thân thể tự nhiên khỏe mạnh.  Tôi chưa từng tìm ai đến đây giúp thân thể khỏe mạnh, trị liệu gì hết, chẳng bao giờ.  Chưa từng ăn đồ tẩm bổ, người ta tặng cho tôi những thứ nhân sâm, sâm Cao Ly, vừa đến tay tôi liền chuyển đem cúng dường người khác, tôi chẳng dùng những thứ ấy, chẳng tiêm nhiễm bao giờ.  Phải ra sức từ trong tâm, chẳng cần chú trọng đến thân thể.

Luôn luôn phải lo đến thân thể khỏe mạnh thì chư vị nghĩ coi, thân kiến của bạn chẳng thể phá, tâm niệm tự tư tự lợi của bạn chẳng dứt bỏ, bạn chấp trước thân tướng.  Kinh Kim Cang dạy chúng ta một nguyên tắc căn bản của sự tu hành: ‘Chẳng có tướng Ta, chẳng có tướng Người, chẳng có tướng Chúng Sanh, chẳng có tướng Thọ Giả’.  Bạn có đầy đủ bốn tướng này, bạn còn chấp trước thì thân tâm của bạn làm sao thanh tịnh cho được?  Thân tâm chẳng thanh tịnh thì thân thể của bạn làm sao khỏe mạnh?  Chư vị nên biết khỏe mạnh nhất là phải trở về với tự nhiên, đại tự nhiên, vô tư, vô ngã.  Thế nên kinh Kim Cang dạy phá Bốn Tướng này tức là trở về tự nhiên, tự nhiên thì khỏe mạnh nhất, tự nhiên thật sự là thân Kim Cang chẳng hư hoại.  Trong kinh nói đến thân kim sắc, ngày nay chúng ta đúc tượng đều thếp vàng, bạn nghĩ coi đẹp không?  Nếu một người gương mặt có màu vàng khè như thếp vàng, người ấy sẽ là người quái gở, tôi nghĩ sẽ chẳng ai thích người ấy.  Vàng là để tiêu biểu pháp, trong hết thảy vật chất, tại sao vàng được người ta cho rằng quý báu như vậy?  Vì vàng chẳng đổi màu sắc.  Bởi vậy nên vàng tượng trưng cho sự bất biến, chẳng biến đổi thì là thiệt, biến đổi là giả.  Chân tâm lìa niệm, đó gọi là vàng, màu vàng, kim sắc.  Sự tiêu biểu pháp trong kinh Hoa Nghiêm, chư vị đều đã xem qua, nói thế giới kim sắc sẽ chẳng biến đổi.  Vọng tâm sẽ biến đổi, là giả.  Thế nên vàng tượng trưng cho chẳng biến đổi, chẳng biến đổi là chân tâm, chẳng biến là nhất tâm, nhị tâm thì biến rồi.

Chúng ta nhất định phải hiểu ý nghĩa tiêu biểu pháp, không thể kẹt cứng trong văn tự, nếu kẹt như vậy thì sai lầm.  Khi bạn muốn khuyên một người học Phật, họ nói: ‘Tôi chẳng muốn học Phật, học Phật rồi trên thân mình vàng khè, rất khó coi’, nhất định phải hiểu rõ nghĩa thú nói trong kinh, thật sự thì kinh Phật rất khó hiểu, khó ở chỗ ‘ý ở ngoài ngôn từ’, thế nên bạn phải biết cách nghe.  Kinh văn cũng vậy, ý ở ngoài văn tự chứ chẳng ở trong văn tự.

Văn tự là để dẫn đường, trong Thiền Tông gọi là ‘chỉ mặt trăng’, rất có đạo lý.  Đó là ‘chỉ’, bạn phải thuận theo hướng [ngón tay] ‘chỉ’ này thì mới nhìn thấy chân tướng.  Thế nên ý chẳng ở trong văn tự, chẳng ở trong ngôn từ, ý chẳng lìa văn tự, cũng chẳng lìa ngôn thuyết, được vậy thì bạn mới thể hội đến ý nghĩa chân thật.  Chân thật nghĩa là tự tánh, tự tánh vốn có đủ trí huệ, tự tánh vốn có đủ đức năng, đây là chân thật nghĩa mà Như Lai đã nói.  Thế nên chân thật nghĩa cũng chẳng phải chân thật nghĩa của đức Phật Thích Ca, phải nói là Như Lai chân thật nghĩa, ‘Như Lai’ là tự tánh, là tên gọi của tánh đức, một trong mười hiệu của Phật, chẳng phải là một người.

Nhược ngộ xan lận giả, thuyết sở cầu vi nguyện báo.
Nếu gặp kẻ bỏn xẻn thì nói rõ quả báo sở cầu không được toại nguyện.

Đây tức là ‘Khổ khi cầu chẳng được’ trong ‘Tám Khổ’.  Tại sao họ cầu chẳng được?  Bỏn xẻn, chẳng chịu thí xả, cầu gì cũng chẳng được.  Năm tôi hai mươi sáu tuổi học Phật, lúc đó tôi tiếc là được nghe Phật pháp quá trễ, Phật pháp hoàn hảo như vậy, tại sao chẳng biết sớm hơn nữa?  Nói thật ra muốn làm cho tôi sanh lòng tin đối với Phật pháp là một việc quá khó, quá khó!  Tôi đã kể cho quý vị rồi, lúc tôi còn trẻ cũng có chút thông minh, chút trí huệ, cũng có chút ít biện tài.  Ai muốn thuyết phục tôi thật sự chẳng dễ, thời gian tôi còn đi học trong trường chưa từng gặp đối thủ.  Chuyện ‘chết’ tôi có thể nói nó trở thành ‘sống’, tôi nói rất giỏi, chuyên môn tranh cãi, chuyên môn chống đối người ta, tôi sẽ nói ra một số lập luận.  Thế nên có thể dạy cho tôi tin Phật, thuyết phục tôi đâu phải dễ!  Tôi gặp được Phương Đông Mỹ tiên sinh, ông thuyết phục tôi được.  Đây là triết học gia đương thời của Trung Quốc, nổi tiếng khắp thế giới, chẳng thuộc hạng của quốc gia, là đại triết học gia cấp thế giới.  Ngài giới thiệu Phật pháp cho tôi, tôi mới tin và có thể quay ngược thái độ của mình đối với Phật giáo một trăm tám mươi độ, [sau đó] vào chùa để tìm kinh coi.  Cũng nhờ có duyên sâu đậm, tôi tiếp xúc kinh Phật được cỡ một tháng thì quen biết Chương Gia đại sư, những nghi vấn khó hiểu gì trong kinh điển tôi đều nhờ ngài giải đáp cho.  Ngài vô cùng từ bi, mỗi tuần cho tôi hai giờ đồng hồ, tôi học hỏi theo ngài hết ba năm, căn cơ Phật pháp của tôi được ngài xây dựng.  Ngài dạy tôi [ba điều vô cùng quan trọng:] Nhìn Thấu, Buông Xả, Bố Thí.  Thế nên học Phật phải học theo ai?  Học theo người thầy mà trong tâm bạn kính phục nhất.  Người này nói gì thì bạn đều phục tùng theo một trăm phần trăm, làm được một trăm phần trăm.  Nếu bạn đối với thầy giáo chẳng tin tưởng, dù thầy giáo có giỏi hơn nữa, có đức độ lớn lao, có khả năng, có trí huệ lớn lao, nếu bạn theo họ thì cũng là luống công.  [Vì] bạn chẳng tin tưởng họ, bạn chẳng thể làm theo những gì họ dạy.  Thế nên ‘sư tư đạo hiệp’ (thầy trò đạo hợp) vô cùng quan trọng, thầy giáo thương mến học trò, học trò tôn kính thầy giáo, thầy giáo thật sự chịu dạy, học trò thật sự chịu học.

[Những vị thầy tôi] gặp trong đời đều do duyên tốt đã kết đời trước, thầy Phương dạy một mình tôi.  Lần này tôi đến giảng kinh tại Hương Cảng, đôi lúc tôi cũng nhắc đến chuyện này.  Viện trưởng thư viện Tân Á ở Hương Cảng lúc trước, ông Đường Quân Nghị, đây là một triết học gia cận đại và cũng là học trò của thầy Phương Đông Mỹ, chúng tôi là học trò cùng thầy nhưng khác thế hệ, ông có thành tựu kiệt xuất trong Triết Học, ông đã mất rồi.  Đường Quân Nghị có lẽ lớn hơn tôi mười tuổi.  Gặp những người này, trên con đường Bồ Đề chúng tôi mới được thuận buồm xuôi gió.  Khi gặp tôi, Chương Gia đại sư yêu mến, chăm sóc tôi rất tận tình, mỗi tuần cho tôi hai giờ, tôi muốn làm biếng cũng không được.  Làm biếng không đi một lần, ngài bèn gọi điện thoại, sai người đi kiếm coi tôi có bị bịnh không, cớ sao chẳng lại?  Bạn xem sự nhiệt tình như vậy làm cho tôi không thể không đi, ngài thật sự là chịu dạy.  Thế nên tôi đối với ân đức của thầy giáo không bao giờ quên.  Sau khi hai ngài mất, tôi theo học với lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, tôi theo ngài mười năm, thầy Lý vô cùng quan tâm, thương mến tôi.  ‘Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng’ là lời Chương Gia đại sư dạy tôi.  Ngài dạy lúc bạn cầu mà không được là vì bạn có chướng ngại, có nghiệp chướng.  Tôi hỏi:  Vậy thì phải làm sao?  Sám hối, tiêu nghiệp chướng.  Nghiệp chướng tiêu trừ thì những gì bạn mong cầu đều sẽ hiện ra.  Tôi cầu Thôn Di Đà, đã cầu suốt mười sáu năm, có nghiệp chướng chẳng thể hiện tiền, chắc là hiện nay nghiệp chướng đã tiêu hết rồi nên Thôn Di Đà bèn thành tựu, đã được thành tựu rồi.  Bạn có nghiệp chướng thì không được, nhất định phải tiêu nghiệp chướng.  Muốn tiêu nghiệp chướng thì phải làm thật sự, tâm hạnh của mình phải nhập cảnh giới Phật.

Chúng tôi biểu diễn trên giảng đài, chư vị đồng tu cần phải lắng nghe kỹ càng, các bạn sẽ có thể nghe ra được.  Tôi đã giảng kinh Vô Lượng Thọ hết mười lần, lần này là lần thứ mười, đại khái đều có lưu lại băng thâu âm.  Các bạn hãy nghe thử, lần nào cũng chẳng giống nhau.  Chẳng phải là tôi có tài liệu chẳng chịu giảng, phải để dành đến lần sau mới giảng, chẳng phải vậy.  Cảnh giới mỗi năm đều khác nhau, việc này nói rõ nghiệp chướng mỗi năm đều tiêu bớt đi một ít.  Nếu nghiệp chướng chẳng tiêu bớt thì cảnh giới chẳng thể hiện ra.  Tôi chẳng phải là một người lợi căn, chỉ là một người căn tánh trung hạ, nghiệp chướng đang tiêu bớt từ từ, mỗi năm đều đang tiêu bớt nên cảnh giới mỗi năm đều chẳng giống nhau.  Tự mình tôi biết được, người thường nghe tôi giảng cũng biết, họ có thể nghe biết được.  Tôi giảng kinh chẳng có bút ký, chẳng ghi chép bài giảng.  Tài liệu của cổ đức tôi có xem qua, tôi dành ra một số thời gian để xem kỹ càng, họ cung cấp cho tôi một số tài liệu tham khảo.  Nhưng lúc giảng, tôi chẳng giảng y theo lời văn của họ.  Nếu y theo chú giải của họ để giảng thì sẽ chẳng khế cơ.  Họ là người ở thời đại xa xưa, đối diện với thính chúng, quán chúng thời đó, còn tâm con người, xã hội hiện đại hoàn toàn khác biệt với lúc trước. Thế nên chúng ta đọc tài liệu của người xưa là nhằm khải phát trí huệ của mình, chỉ có thể tham khảo.  Chúng ta phải có khả năng quán sát căn cơ của đại chúng hiện nay, sau đó mới có thể làm được việc thuyết pháp ứng cơ, thật sự có thể giúp đỡ, đem lại thọ dụng thật sự cho họ.  Hóa giải kiếp nạn, làm được xã hội hòa mục, an định, phồn vinh, người ta ai nấy đều có thể sống cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn, đây là mục đích của sự học Phật hiện nay.  Trong nhà Phật đích thật là có cầu ắt ứng, cầu làm Phật còn được huống chi những thứ khác.

Làm Phật là khó nhất, làm Phật cũng có thể cầu được thì những thứ vinh hoa phú quý trong thế gian đều là việc nhỏ nhoi như lông gà vỏ tỏi, đâu có lý nào mà cầu chẳng được!  Chúng ta phải có lòng tin.  Nếu bạn muốn có cầu ắt ứng thì chẳng có gì khác ngoài việc ‘tiêu nghiệp chướng’.  Lời dạy này của Chương Gia đại sư, tôi ghi nhớ suốt đời, y giáo phụng hành.

Nhược ngộ ẩm thực vô độ giả, thuyết cơ khát yết bịnh báo
Nếu gặp kẻ ăn uống vô độ, thì dạy quả báo đói, khát, cổ họng đau đớn.

Câu này dễ hiểu, tham ăn.  Hiện nay có rất nhiều bịnh quái gở trong xã hội lúc trước chưa từng nghe qua, bịnh từ đâu đến vậy?  Ngạn ngữ nói rất hay: ‘Bịnh từ miệng vào, họa từ miệng ra’.  Khẩu nghiệp kể phía trước, sẽ tạo ra họa hại, tai họa đều phát sanh từ khẩu nghiệp mà ra.  Tật bịnh đều từ việc ăn uống, bịnh từ miệng vào.  Lần này tôi ở Hương Cảng, có một đồng tu nói với tôi, ông nói đây là chuyện có thật ở Hương Cảng.  Đây là tin tức trong xã hội, mọi người đều biết.  Mấy năm trước có hai mẹ con người đó rất thích ăn đồ biển, mỗi ngày đến eo biển đều mua đồ sống, chẳng phải là họ tự mình bắt, họ mua đồ sống về tự nấu ăn.  Đến già thì người mẹ này bị một bịnh [kỳ lạ], khi phát bịnh thì nói: “Nước rất lớn, đi đến đâu cũng là cát bùn, cứ bò tới bò lui trong phòng, giống như đang trèo lên bờ”, giống như những loại hải sản vậy.  Sau này lở loét trên khắp thân mình xong rồi chết đi.  Sau khi người mẹ chết, người con gái cũng bị bịnh giống vậy, qua một thời gian chẳng có cách chi chữa khỏi nên đi khắp nơi cầu thần, coi bói, và gặp một vị pháp sư.  Pháp sư nói với cô: “Đây là quả báo cả đời cô sát sanh, ăn đồ biển sống”, phải mau sám hối, dạy cho cô phóng sanh, ăn chay.  Lúc đó cô bèn làm theo nhưng chẳng kịp nữa, vẫn phải chết.  Bạn bè thân quyến của cô thấy vậy nên đều ăn chay trường, chẳng dám ăn những đồ biển này nữa.  Đây là chuyện có thật, lúc chết giống như hình tướng những hải sản dưới biển vậy, quả báo rành rành hiện trước mắt cho bạn coi.  Tuy là một tin tức trong xã hội, tôi thấy những tiệm bán hải sản ở Hương Cảng vẫn ngồi đầy khách, thật đúng là ‘ương ngạnh khó giáo hóa’.  Bồ Tát gặp những chuyện như vậy, hiện nay nên đem nó đóng thành phim điện ảnh, cho chiếu khắp nơi.  Nên dán vài tấm nói rõ những quả báo này trong tiệm bán đồ biển, để cho mọi người xem, thật rất đáng sợ!  Kiếp đao binh trong thế gian từ đâu đến?  Chính là từ việc ăn thịt của chúng sanh đấy.

Hiện nay mọi người ai nấy đều chú trọng thân thể khỏe mạnh, muốn thân thể được khỏe mạnh thì tốt nhất là ăn chay, trong việc ăn chay tốt nhất là ăn rau cải sống.  Hiện nay tôi ăn rau cải sống, đã ăn cả hai tháng nay nên mọi người thấy tôi rất ốm, đã ốm bớt đi.  Tôi nói với họ thân thể chẳng khỏe, công việc giao tiếp quá nhiều, tốt nhất đừng kiếm chuyện gặp tôi.  Nhưng trên thực tế là đang thay đổi đời sống, lần thứ nhất tôi thay đổi là lúc bắt đầu ăn chay trường, lúc đó thân thể ốm, đại khái hai ba năm sau đó thì thân thể khôi phục lại bình thường.  Bây giờ làm một sự thay đổi lần thứ nhi, ăn rau cải sống, cả hơn hai tháng tôi chẳng ăn cơm, toàn ăn rau cải.  Buổi sáng ăn một chén cháo, ăn hai cuộn rau, một chén canh.  Hôm nay chúng ta có làm [món này] không?  Nếu có làm, hãy mang vài cuộn, chúng ta đem đến phòng ăn mời lão hòa thượng dùng.  Chẳng có dầu, chẳng có muối, hoàn toàn là rau cải sống.  Tôi thường nghĩ, bạn coi bò, dê ăn cỏ, thân thể của nó cường tráng như vậy, chúng nó chẳng ăn dầu, muối, càng nghĩ càng có lý.  Các bạn đồng tu giới thiệu cho tôi, sau khi ăn hơn hai tháng, ăn rất ngon lành, dễ chịu, đích thật có ích lợi.

Chúng ta phải chú ý việc ăn uống, đặc biệt là việc ăn uống hiện đại.  Tâm người hiện đại chẳng tốt, những địa phương khác thì tôi không biết còn tình hình ở Đài Loan thì tôi biết, đồ ăn nuôi heo toàn là thuốc hóa học, thúc giục rút ngắn thời gian sanh trưởng của heo, làm cho heo lớn lên nhanh chóng, sau sáu tháng bèn giết lấy thịt.  Cho nên trong thịt heo đều là các độc tố, chẳng bình thường.  Nói thêm, hồi trước gia súc đều được nuôi bên ngoài, lúc chưa làm thịt thì đời sống của nó rất tự do, tự tại, tâm tình của chúng nó rất thoải mái vui vẻ.  Hiện nay những loài súc sanh này, vừa sanh ra liền bị nhốt trong lồng, cũng giống như ở tù vậy, bị tù chung thân mãi cho đến khi bị giết làm thịt.  Bạn nói tâm tình của chúng nó như thế nào?  Trong thịt của nó tràn đầy chất độc, người ta ăn vào làm sao không sanh bịnh cho được?  Sanh ra những bịnh kỳ quái.  Hiện nay ăn chay cũng phiền phức, rau cải cũng có thuốc, nghe nói gạo cũng có chất hóa học gì trong đó nên hạt gạo trông rất đẹp đẽ, đều có độc tố, đúng như trong kinh có nói: ‘uống khổ, ăn độc’, ngày nay chúng ta sống cuộc đời như thế đó.  Nhà nông chúng ta ở Đài Loan, họ ăn rau cải tự mình trồng, tách rời với những rau cải dành để bán; họ nói rau cải dành để bán không ăn được, có chất độc, họ biết nên rau cải có chất độc thì bán cho người ta ăn.  Gạo cũng vậy, gạo của họ ăn là gạo trồng riêng ra, còn gạo để bán là loại trồng riêng, đều tách rời ra.  Họ bán những thức có độc này cho người khác, bản thân của họ cũng sẽ chẳng tránh khỏi bị chất độc làm hại, vì tâm họ chẳng thiện.

Ngày nay chúng ta cũng phải nói là có duyên, gặp được đồng tu giới thiệu mới biết xú dưỡng [14] có thể hóa giải thuốc trừ sâu.  Nên những rau cải chúng ta ăn hiện nay đều được xử lý bằng xú dưỡng, phân giải những chất có độc trong rau cải, cho nên đồ ăn sạch sẽ hơn đồ ở ngoài.  Việc này có thể đẩy mạnh rộng rãi, tôi muốn tìm công xưởng chế tạo máy móc này, hy vọng nó có thể sản xuất hàng loạt, chúng ta tìm cách để giúp họ truyền bá, giới thiệu.  Có thức ăn khang kiện, tâm lý thanh tịnh, tâm lý từ bi, thân tâm khỏe mạnh, chẳng có một pháp nào không phải là Phật pháp, pháp nào cũng đều là Phật pháp.

Tốt lắm, hôm nay đã hết giờ, chúng ta giảng đến đây.

Tập 14 (Số 14-12-14)
Xin mở kinh, Khoa Chú quyển thượng, trang 167, xin xem kinh văn:
Nhược ngộ điền lạp tứ tình giả, thuyết kinh cuồng táng mạng báo
Nếu gặp kẻ săn bắn buông lung thì dạy rõ quả báo kinh cuồng, mất mạng
Câu kinh này, hồi trước, khi tôi đọc kinh này có cảm xúc rất sâu.  Điền lạp tức là săn bắn, tứ tình là buông lung, mặc sức giết hại hết thảy chúng sanh.  Phạm vi bao gồm vô cùng rộng rãi, chẳng kể dùng cách thức gì, có thể nói là phương pháp rất nhiều, mục đích đều nhằm để bắt dã thú.  Săn bắn hoặc dùng lưới, thời xưa dùng cung tên, ngày nay thì dùng súng, số lượng chúng sanh bị giết hại cũng còn có hạn.  Nhưng chúng tôi đi bắt cá, phần lớn người ta bắt cá dùng lưới, một mẻ lưới phóng ra cũng vẫn có hạn.  Ngày xưa chúng tôi làm việc này bằng cách quá độc ác, chúng tôi dùng thuốc nổ TNT để bắt cá, sau khi thuốc nổ xong, cá chết cả ngàn, cả vạn con, chúng chẳng phải bị nổ chết mà vì chấn động chết.  Tôi đi theo cha tôi săn bắn hết ba năm, tôi nhớ năm đó tôi mười sáu, mười bảy, mười tám tuổi.  Đọc đoạn kinh này xong [nhớ lại] báo ứng của cha tôi chính là như vậy.  Ông mất năm bốn mươi lăm tuổi, lúc mất là kinh cuồng mất mạng, tôi nhìn thấy tận mắt, đó là quả báo ngay trong đời này.  Lúc ông phát bịnh lên thì trở thành điên cuồng, người ốm nhom đến da bọc xương, [nhưng] sức lực rất mạnh mẽ, mạnh đến mấy người cũng cản không nổi.  Khi gặp chỗ có nước thì lao đầu xuống nước, khi gặp núi thì cắm đầu chạy lên núi, do vậy đây là quả báo của việc săn bắn.

Tôi đọc đoạn kinh này xong bèn phát tâm ăn chay, biết được sát nghiệp quá nặng, đích thân trải qua nên cảm xúc vô cùng sâu đậm.  Sau đó thấy những gì nói trong Phật pháp, hết thảy chúng sanh vô thỉ kiếp đến nay nhân quả tuần hoàn, trong kinh nói “nhân mạn bất đoạn” (dây dưa không dứt), nhiều đời nhiều kiếp báo đền lẫn nhau dây dưa mãi chẳng dứt.  Tuy là tạo tội nghiệp vì vô tri, chẳng biết, nhưng không thể nói vì chẳng biết thì không có quả báo, chẳng biết vẫn có quả báo như thường.  Nếu sau khi học Phật, đã hiểu những đạo lý này xong mà vẫn tạo tác thì phạm hai tội, tức là thêm tội phá giới.  Giới luật căn bản trong năm giới có cấm sát sanh, đây là giới sát sanh, lại thêm một tội phá giới nữa.  Chẳng học Phật, chẳng nghe đến Phật pháp, sát sanh là ‘tánh tội’, chẳng kể là bạn có thọ giới hay không đều là có tội.  Chúng ta biết được quả báo đáng sợ thì nhất định sẽ chẳng dám làm những việc này.  Tôi học Phật và biết được đạo lý này xong bèn ăn chay trường, phóng sanh.  Cả đời này tôi làm  những chuyện thường gọi là tu phước, tôi chỉ làm ba việc: phóng sanh, in kinh, giúp đỡ bịnh khổ.  Tôi chẳng có phước báo, khả năng tiền bạc vô cùng có hạn, có một chút [tiền] cúng dường, tôi làm những chuyện gì?  Phóng sanh, quyên tặng cho bịnh viện, làm tiền thuốc men cho người nghèo, thứ ba là in kinh bố thí.  Những chuyện khác tôi đều chẳng làm.  Tự mình tôi không chủ trương xây đạo tràng, thế nên cũng có quả báo, chẳng có chỗ ở, cả đời ở nhờ đạo tràng của người khác, cũng rất tốt, tự mình chẳng có đạo tràng.  Nguyên nhân thực tế là phước báo của mình quá nhỏ, làm chuyện tốt nhỏ, làm công đức ít, xây một đạo tràng cần phải có phước báo lớn, tôi chẳng có phước báo lớn như vậy.  Lúc chưa học Phật, tạo tội nghiệp quá nặng, thời còn làm học sinh [đã phạm tội] làm thân Phật ra máu, tôi đã kể cho các bạn rồi, đã tạo tội nghiệp đọa địa ngục A Tỳ; săn bắn cũng là tội báo địa ngục A Tỳ.  Thế nên lúc trước người ta nói tôi đoản mạng, ngay cả Phật Sống Cam Châu cũng nói tôi đoản mạng, chẳng có phước báo; người thì rất thông minh, có một chút trí huệ nhỏ, nhưng đáng tiếc là chẳng có phước báo, đoản mạng.  Ngài nói với tôi, tôi nhìn nhận, tôi tin tưởng, lúc trước tạo tội nghiệp nên phải chịu những quả báo này, đáng phải nhận số mạng như vậy, còn nói gì được nữa?  Thế nên tôi cũng chẳng oán trời, chẳng trách người.  Phật Sống Cam Châu nói với tôi, Ngài nói: “Những năm gần đây ông giảng kinh thuyết pháp, công đức ấy rất lớn!”.  Ngài nói: “Không những ông có phước báo mà còn rất trường thọ”.  Ngài Cam Châu nói những lời này với tôi, năm sau thì ngài vãng sanh.  Ngài là bạn cũ, là bạn đồng tu cũ của tôi.

Nhược ngộ bội nghịch phụ mẫu giả, thuyết thiên địa tai sát báo.
Nếu gặp kẻ ngỗ nghịch với cha mẹ thì dạy rõ quả báo trời đất đánh chết.

Việc này là chẳng hiếu cha mẹ, không những không hiếu thuận mà còn phản nghịch cha mẹ, làm thương tổn cha mẹ bằng lời nói và hành động.  Thời xưa cũng có nhưng còn ít; hiện nay thì rất nhiều.  Lúc trước khi tôi còn đi học ở Đài Trung, thầy Lý kể cho chúng tôi một câu chuyện, đây là chuyện thật đời Thanh.  Lúc nói cách nay cũng lâu, lúc đó ngài nói ra địa danh bây giờ tôi chẳng nhớ rõ.  Đời Thanh trước kia có một đứa con giết cha, đây là [tội] bội nghịch cha mẹ.  Lúc ấy triều đình nhà Thanh hạ lịnh, tri huyện ở địa phương ấy tức là huyện trưởng bị cách chức, còn phải ngồi tù, phán tội phải ở tù.  Tại sao?  Quan địa phương chẳng dạy dân chúng đàng hoàng, đây là vì họ chẳng làm tròn trách nhiệm, thế nên người đứng đầu ở địa phương ấy phải bị cách chức, tra hỏi.  Tuần Phủ, tức là chức tương đương như tỉnh trưởng bây giờ, ghi chép tội trạng, xử phạt thật nặng.  Quý vị là quan viên địa phương, quan địa phương được gọi là Phụ Mẫu Quan, quý vị làm sao dạy người ta làm như vậy?  Xử phạt như vậy còn chưa đủ, còn phạt thêm nữa, thành quách khi trước đều có tường bọc xung quanh thành, vạt bớt một góc thành để nói địa phương ấy có một người đại bất hiếu như vậy, đó là sự sỉ nhục của toàn địa phương ấy, là vạt bớt một góc thành.  Nói “trước kia hoàng đế chuyên chế”, hoàng đế thật sự chịu trách nhiệm, chứ không phải là không chịu trách nhiệm. Ông ta giao trách nhiệm cho quan viên địa phương, thị trưởng thay thế ông ta lãnh trách nhiệm giữ gìn phong tục tốt lành, phải giáo hóa, thực hiện cho tốt.  Hiện nay tin tức trên báo chí thường đăng tải ai chịu trách nhiệm?  Chẳng có người chịu trách nhiệm.  Dân chủ, mọi người đều làm chủ, mọi người làm chủ [nhưng] mọi người chẳng chịu trách nhiệm, cứ đẩy trách nhiệm cho người khác thì xã hội này làm sao tốt được?

Lúc trước pháp sư Diễn Bồi có một lần lại đây, ngài hỏi tôi: ‘Pháp sư Tịnh Không, ông rốt cuộc là tán thành quân chủ hay là dân chủ?’.  Tôi nói: ‘Tôi tán thành quân chủ’.  Ngài nói đùa: ‘Ông lạc hậu rồi’.  Tôi nói: ‘Tôi đâu có lạc hậu.  Nếu so sánh kỹ quân chủ và dân chủ, quân chủ có nhiều điểm tốt hơn dân chủ.  Quân chủ chịu trách nhiệm, còn dân chủ không chịu trách nhiệm.  Tôi nói lời này chẳng quá đáng, sự thật bày trước mắt.  Ông vua muốn quyền lực của  mình tiếp nối mãi tới đời sau nên ông ấy nhất định phải làm cho hoàn hảo; người tiếp ngôi của ông, thái tử kế vị, vua phải kiếm ông thầy ưu tú nhất để dạy dỗ, uốn nắn để cho thái tử nhận được sự giáo dục hoàn hảo nhất; biết thương yêu quốc gia, thương yêu nhân dân, biết cách đem lại phước lợi cho nhân dân thì chánh quyền của họ mới có thể duy trì, mới có thể truyền cho con cháu.  Nếu ông vua làm không hoàn hảo thì chánh quyền của ông sẽ bị người khác đoạt mất, thế nên ông phải làm một cách kiêng dè, thận trọng.  Dân chủ [thì ông tổng thống] được bầu lên làm bốn năm, bốn năm sau giao cho người khác nên ông ta chẳng suy tính kế sách lâu dài.  Thời đại quân chủ, họ nghĩ đến kế lớn trăm năm, họ có thể nghĩ đến một trăm năm thì họ có thể duy trì một trăm năm, nếu họ nghĩ đến hai trăm năm thì họ có thể hưởng đến hai trăm năm.  Họ không thể chỉ nghĩ đến vài năm mà thôi, nếu chỉ nghĩ đến vài năm thì chánh quyền của họ không khỏi bị lật đổ.  Chúng ta phải quan sát sự thật một cách khách quan.

Ông Tôn Trung Sơn lật đổ chế độ chuyên chế, xây dựng cộng hòa, lý tưởng của ông thật là vô cùng tốt đẹp, tiếc là thọ mạng quá ngắn, ý tưởng và quan điểm của ông ta tuyên dương chẳng đủ.  Ông xây dựng một chánh đảng, dùng chánh đảng này để thay thế cho một gia tộc, lý tưởng và quan niệm của ông là như vậy.  Tập hợp ưu điểm của quân chủ và dân chủ, tránh được khuyết điểm của quân chủ và dân chủ, tôi rất kính ngưỡng, khâm phục ông Tôn.  Ông lập một đảng chuyên chánh, trong đảng đó đều do dân chủ tuyển chọn ra, nhưng chuyên chánh có cái hay của quân chủ.  Ông chọn những ưu điểm trong nước và ngoài nước, xưa và nay, lược bỏ khuyết điểm, dùng phương pháp này để trị quốc.  Đế vương đời xưa [có hình thức] là gia tộc, một gia tộc này xúm lại cai trị quốc gia; hiện nay xây dựng một chánh đảng, là muốn những nhân tài có trí huệ trên toàn quốc hợp lại với nhau để cai trị một quốc gia, dùng phương pháp này để thay thế một gia tộc.  Cách suy nghĩ này rất hay, chẳng phải là chánh trị nhiều đảng.  Cách suy nghĩ rất tốt, đáng tiếc là chẳng làm nổi, người hiểu rõ lý tưởng và quan niệm này chẳng nhiều.  Tại sao chẳng thể phát huy rộng rãi lý tưởng và quan niệm này?  Truy tìm đến nguồn gốc vẫn là một câu: chẳng đọc sách thánh hiền.  Nếu có thể dùng tinh thần giáo dục truyền thống sẵn có của Trung Quốc, lý tưởng và quan niệm này của ông có thể xây dựng được gốc rễ vững chắc, đó thật là điều may mắn của quốc gia, dân tộc.  Thế nên chúng ta xem xét vấn đề phải nhìn sâu, nhìn xa, phải có nhãn quan của lịch sử.  Người Trung Quốc nói ‘sử thật’ (sự thật rút tỉa từ lịch sử), kinh luận là học vấn, lịch sử là kiến thức, thì bạn mới có thể hiểu đại khái chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sinh, mới có thể tránh khỏi rất nhiều sai lầm, thật sự vì nhân dân, vì quốc gia, vì chúng sanh tìm cầu hạnh phúc, như vậy mới là người có trí, có nhân từ.

Kinh điển Phật giáo có thể nói là điển tịch trí huệ rốt ráo viên mãn, người có thể hiểu rõ càng ít hơn.  Tại sao chẳng thể lý giải?   Nhất định phải đào thải sạch sẽ những thói hư tật xấu, tham – sân – si – mạn, thì mới có thể lý giải, việc này quá khó đi thôi!  Có phàm phu nào chẳng có tham, sân, si?  Nhà Nho hiểu rõ đạo lý này, hy vọng bạn có thể khắc phục, đè nén thì được rồi, họ chẳng kêu bạn đoạn dứt.  Mục đích Phật pháp là dạy cho bạn siêu việt Tam giới, muốn siêu việt Tam giới nếu không đoạn dứt thì không làm nổi.  Nhà Nho chẳng siêu việt Tam giới, nói cách khác, chỉ giảng đến nhân, thiên.  Thiên vẫn là cõi trời Dục Giới, còn chưa tới cõi Sắc Giới, còn chưa đoạn dứt Dục, chỉ dạy bạn khống chế Dục, chẳng để cho Dục tăng trưởng.  Có bao nhiêu đó thôi, đừng để cho nó tăng thêm, họ dạy như vậy.  Mục đích của Phật pháp là phải siêu việt Tam giới, muốn siêu việt Tam giới thì nhất định phải đoạn dứt.  Chúng ta hiểu rõ duy chỉ có đoạn dứt phiền não thì trí huệ Bát Nhã vốn sẵn có trong tự tánh mới có thể hiện tiền, nếu chẳng đoạn dứt phiền não thì chắc chắn [trí huệ] chẳng thể hiện tiền.  Phật nói: ‘Hết thảy chúng sanh đều có đủ trí huệ đức tướng của Như Lai’, cho nên hết thảy chúng sanh cùng chư Phật Như lai chẳng khác nhau.  Tại sao hiện nay trên hình thức lại có sai khác lớn lao như vậy?  Trí huệ đức tướng của chúng ta có chướng ngại, Phật chẳng có chướng ngại.  Chướng ngại là gì?  Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, ba chướng ngại to lớn này.  Thế nên chúng ta vốn có sẵn trí huệ cứu cánh viên mãn, [bây giờ] trí huệ chẳng còn nữa, trí huệ biến thành phiền não; vốn là chẳng sanh chẳng diệt, cảnh giới đại Niết Bàn, đại Niết Bàn biến thành sanh tử luân hồi, bạn nói có oan uổng hay không!  Vốn có sẵn phước đức viên mãn, hiện nay phước đức biến thành nghiệp chướng, sống những ngày tháng đau khổ đều do chẳng thể đào thải những lớp chướng ngại này.

Thế nên lời đức Phật dạy chúng ta là lời tốt, lời thật, dạy chúng ta ‘Diệt hết tham sân si, siêng tu Giới Định Huệ’, đây là một con đường sống sót, là một con đường thoát ly lục đạo luân hồi, con đường rộng lớn thoát lìa khổ hải.  Những thứ nhân quả này, chúng ta đọc xong phải hiểu rõ, nhân gì sẽ tạo ra quả báo gì.  ‘Thiên địa tai sát’, bội nghịch cha mẹ, chịu những sự trừng phạt của pháp luật thế gian này là hoa báo, quả báo là ở địa ngục.  Những bút ký của Trung Quốc ngày xưa ghi những chuyện này rất nhiều, trong Chánh Sử cũng có ghi chép, đều là sự thật, chẳng giả.  Hiện nay người bội nghịch cha mẹ rất nhiều, hình như chẳng có quả báo, chư vị còn trẻ tuổi, hãy đợi thêm vài năm nữa coi, coi có quả báo hiện ra không?  Đã tạo ra nhân thì chẳng thể nào không có quả báo.  Câu phía sau này, chúng tôi đọc lên càng có cảm nhận sâu hơn.

Nhược ngộ thiêu sơn lâm mộc giả, thuyết cuồng mê thủ tử báo.
Nếu gặp kẻ đốt núi rừng, cây cối thì dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.

Lúc trước Tân Gia Ba bị nạn khói mù bao phủ, nghe nói Mã Lai Á, Indonesia, khắp nơi đều thiêu đốt rừng núi.  Phải biết, trong hết thảy tạo tác tội nghiệp, đốt rừng núi là tội nghiệp nặng nhất.  Bạn nghĩ xem, một ngọn lửa đốt lên có bao nhiêu sanh linh phải mất mạng!  Còn nhiều hơn săn bắn không biết gấp bao nhiêu lần.  Chúng ta dùng phương pháp gì để săn bắn cũng chẳng hại nhiều chúng sanh bằng thiêu đốt rừng núi.  Khi thiêu khu rừng này, số chúng sanh bị sát hại phải tính đến số triệu, trăm triệu, những động vật nhỏ này một con cũng chẳng chạy thoát.  Thật ra tạo hết thảy tội nghiệp cũng chẳng nặng bằng việc này, đây là trọng giới sát sanh.

‘Cuồng mê thủ tử’, quả báo hiện đời là hoa báo, quả báo chắc chắn ở tại địa ngục A Tỳ.  Thọ tội ở địa ngục A Tỳ, trong kinh nói là vô số kiếp.  Vô số kiếp xong được thoát ra, tương lai phải đền mạng hết thảy những chúng sanh bị giết hại, không thể nói giết rồi thì xong chuyện, đọa địa ngục, thọ tội địa ngục xong thì hết chuyện, vậy thì quá tiện nghi cho bạn.  Thiếu tiền phải trả tiền, thiếu mạng thì phải đền mạng, bạn nói nhân quả này đáng sợ bao nhiêu.  Bạn giết một chúng sanh tương lai phải đền một mạng, giết hai thì phải đền hai mạng, bạn giết bao nhiêu thì tương lai phải đền bấy nhiêu mạng.  Tu hành chứng quả cũng không tránh được, không thể nói tu hành chứng quả rồi thì hết chuyện, thì có thể thiếu nợ khỏi trả tiền, thiếu nợ mạng khỏi đền mạng, nếu vậy thì chẳng phải Phật pháp đã phá hoại định luật nhân quả rồi sao?  Chư vị nên biết, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật rồi vẫn còn phải chịu quả báo ba tháng ăn mã mạch(lúa mạch dành cho ngựa ăn).  Bạn nghĩ xem nhân quả báo ứng, thành Phật rồi cũng chẳng thể tránh khỏi.  Trong Cao Tăng Truyện các bạn thấy An Thế Cao, ngài phải trả hai món nợ mạng ở Trung Quốc, đời trước ngộ sát người nên đời này cũng bị người ta ngộ sát, giết chết; chứng minh cho chúng ta nhân quả báo ứng tơ hào chẳng sai.  Ngài là người đã chứng quả, người chứng quả tự mình rõ ràng, cam tâm tình nguyện trở lại để đền mạng, chịu cho người ta giết, chịu trả một cách rất vui vẻ vì nợ được thanh toán, đã trả dứt.

Ngày nay nếu chúng ta nói bị người ta ăn cắp đồ, bị người ta giựt, bị người hại, trong kinh đức Phật dạy ‘hãy nghĩ như mình trả nợ’.  Vì chúng ta không có trí huệ, chẳng có thần thông, chẳng biết chuyện quá khứ, trong tâm nghĩ trả nợ, vui vẻ chẳng có một tí gì oán hận.  Bị người ta gạt, bị người ta hãm hại, phải nghĩ là mình trả nợ, món nợ này đến đây kết thúc.  Nói thật ra chẳng phải là mình thiếu họ thì là họ thiếu mình, không phải là chuyện như vậy hay sao?  Tôi thiếu họ, tốt lắm, tôi trả hết.  Họ thiếu tôi, không cần nữa, đời sau đừng đòi nợ nữa, cứ đòi tới đòi lui, dây dưa chẳng dứt!  Thiếu người ta thì trả họ, người ta thiếu thì không cần đòi, đỡ mắc công, như vậy mới là cách làm có trí huệ, thông minh.  Câu này không những chúng ta phải ghi nhớ, nên thường nói cho người khác nghe, giết hại sanh mạng chắc chắn là phải đền mạng.  Bạn mồi lửa thiêu trụi rừng núi, bạn có biết bạn đã giết hại biết bao nhiêu sanh linh hay chăng?  Có bao nhiêu con kiến, động vật ở dưới đất?  Tương lai đọa vào cõi súc sanh để đền mạng chẳng bao giờ dứt.  Trong một đời, những tội nghiệp tạo tác trong mấy chục năm ngắn ngủi, vô lượng kiếp cũng trả chẳng hết, đáng sợ vô cùng.  Trong đời này nếu chúng ta thật sự giác ngộ, thật sự có trí huệ, đời sống có gian khổ cách mấy cũng không sao cả, tuyệt đối chẳng được lợi dụng người ta mảy may.  Nhất định phải giữ tâm tốt, làm việc tốt, tích đức tu thiện, đời này hết rồi, đời sau sanh đến chỗ tốt, đời sau nhất định sẽ không đọa vào tam ác đạo, đọa vào tam ác đạo thì dễ sợ lắm.

Có thể có bạn đồng tu sẽ nói tôi đã tạo những tội nghiệp này thì phải làm sao?  Bản thân tôi là một thí dụ rất tốt.  Lúc nhỏ trẻ tuổi háo ăn, ăn thịt chúng sanh, thịt của gia súc nuôi trong nhà ăn không ngon, ăn thịt rừng ngon hơn nên ngày nào cũng đi săn bắn.  Thế nên chiêu cảm báo ứng, quả báo đoản mạng; đoản mạng là quả báo hiện đời, quả báo tương lai là đọa địa ngục A Tỳ.  Sau khi ra khỏi địa ngục A Tỳ thì phải trả từng món nợ một, bạn đã tạo ra nhân thì đâu có lý nào khỏi phải chịu quả báo?  Nhưng Phật nói với chúng ta chỉ cần bạn còn một hơi thở thì bạn vẫn còn cơ hội được cứu.  Tuy đã tạo tội nghiệp đọa địa ngục A Tỳ, Phật cũng còn cách cứu.  Vấn đề là bạn có chịu tin hay không?  Nếu bạn không tin thì bạn không có cách gì cứu được; nếu bạn chịu tin thì bạn vẫn được cứu.  Phật dạy: ‘Sám trừ nghiệp chướng’, trong kinh chúng ta đọc đến vương tử A Xà Thế tạo tội ngũ nghịch, giết cha, giết mẹ, kết cấu với Đề Bà Đạt Đa phá hoại tăng đoàn, phá hòa hợp tăng, Đề Bà Đạt Đa làm thân Phật chảy máu, hai người ác này.  Đến lúc lâm chung vua A Xà Thế mới giác ngộ biết được lúc trước đã tạo ra tội lỗi, biết sai rồi, hướng về Phật cầu sám hối.  Phật dạy ông ta niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ, ông dùng tâm chí thành, chân thành sám hối, sức mạnh của việc sám hối vượt hơn nghiệp lực, ông vãng sanh về Cực Lạc thế giới.  Vả lại phẩm vị vãng sanh rất cao, Phật nói ông ta vãng sanh Thượng phẩm Trung sanh.  Người học Phật chúng ta coi đến chỗ này không phục, tạo tội nặng như vậy thì Hạ Hạ phẩm vãng sanh đã là tốt quá rồi, làm sao có thể Thượng phẩm Trung sanh?  Thế mới biết sức mạnh của việc sám hối chẳng thể nghĩ bàn.  Một niệm quay trở lại thì người ấy là người chí thiện, thật sự là người thiện, ngạn ngữ chúng ta thường nói: ‘Lãng tử quay về, vàng cũng chẳng chịu đổi’, ông ta thật sự đã quay về, được vậy thì siêu phàm nhập thánh.

Siêu phàm nhập thánh, nói cho chư vị biết, thì sẽ chẳng thọ tội nghiệp ở địa ngục nữa, có thể tránh khỏi.  Nợ có phải trả không?  Vẫn phải trả.  Làm thế nào trả?  Bồ Tát thuyết pháp độ chúng sanh là trả nợ.  Trong khi độ chúng sanh cũng gặp rất nhiều sự việc chẳng vừa ý, tất cả đều là để trả nợ.  Giống như đức Phật Thích Ca, ở vào địa vị Như Lai độ chúng sanh, nhưng trong đồ chúng xuất gia của Ngài vẫn có Lục Quần tỳ kheo, Ðề Bà Ðạt Ða, mỗi ngày đều nhiễu loạn, mỗi ngày đều gây rắc rối cho Ngài, đây là trả nợ, oán thân chủ nợ đời quá khứ.  Thế nên năm xưa lúc đức Thế Tôn còn tại thế đã biểu diễn, làm gương cho chúng ta thấy, lão nhân gia Ngài đều chẳng tránh khỏi, chúng ta là pháp sư xuất gia hậu thế bị một số người phao tin đồn, kiếm chuyện, hủy báng, hãm hại, đây là chuyện thường thôi.  Ðời Minh, đại sư Hám Sơn còn phải ngồi tù mấy năm.  Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng đại sư phải lẩn trốn trong nhóm thợ săn hết mười lăm năm, Ngài chân chánh là Bồ Tát minh tâm kiến tánh, chẳng phải là người thường.  Làm người thấp kém, người làm công trong nhóm thợ săn; nấu cơm, giặt quần áo, chăm sóc những người thợ săn này, thời gian chẳng ngắn, mười lăm năm.  Chịu đựng sự oan khuất nhục nhã lớn dường ấy, đây là tội nghiệp đời trước, oán gia chủ nợ, bạn chẳng thể nào không trả nợ được.  Từ những chỗ này chúng ta tưởng tượng đến đức Phật trong kinh dạy những chân tướng sự thật này, nghiệp nhân quả báo tơ hào chẳng sai, đúng như lời nói ‘chẳng phải là không báo, mà là thời giờ chưa đến’.  Thời tiết nhân duyên cũng là nhân duyên quả báo thật phức tạp, một ngày nào đó sẽ gặp phải duyên này, có một ngày bạn phải thọ quả báo.  Câu sau:

Nhược ngộ tiền hậu phụ mẫu ác độc giả, thuyết phản sanh tiên thát hiện thọ báo
Nếu gặp kẻ làm cha mẹ trước hoặc cha mẹ sau mà độc ác, thì dạy rõ quả báo sanh trở lại hiện đời bị roi vọt.

Ðây là trong thế gian chúng ta gọi là cha trước, mẹ kế, vì con cái chẳng phải con ruột nên thường ngược đãi.  Hiện nay nó còn nhỏ, bạn ngược đãi nó, nó sẽ ghi hận trong lòng, tương lai khi bạn già, nó lớn lên rồi, thì sẽ báo thù, báo ứng hiện đời.  Thế nên Phật dạy chúng ta một nguyên tắc chung, cương lãnh chung, chúng ta phải ghi nhớ “đừng kết oán thù với hết thảy chúng sanh”, đây là nguyên tắc cương lãnh chung.  Thà chịu bị người ta sỉ nhục, hãm hại, chúng ta nhất định không thể có một ý tưởng báo thù, đời này chúng ta mới có thể siêu việt tam giới.  Nếu có một ý niệm oán trời trách người, có một ý niệm oán hận, nói cách khác, thì bạn vẫn phải trôi lăn trong lục đạo y như cũ.  Quan hệ của bạn đối với những oán thân chủ nợ này chẳng có cách gì thoát khỏi, cứ báo đền lẫn nhau từng đời từng kiếp, mỗi lần càng tàn khốc hơn lần trước, bạn tạo nên những tội nghiệp cực nặng này vô cùng dễ sợ.  Nếu chư vị đọc nhiều kinh Đại Thừa sẽ lông tóc dựng đứng [vì sợ hãi].  Những tội nghiệp chúng ta đã tạo trong quá khứ chẳng những đời này, đời này chúng ta tự biết được, còn có đời quá khứ, những tội nghiệp tích lũy từ quá khứ vô thỉ còn kinh khủng nữa!  Càng nghĩ càng dễ sợ, càng nghĩ mới biết sự việc này quan trọng, dễ sợ lắm!  Bạn phải trôi lăn trong lục đạo, oán thân chủ nợ vô lượng vô biên, làm sao có ngày tháng sinh sống thoải mái được?

Do đó chúng ta bình tĩnh quan sát thế gian này có người nào không đau khổ?  Bất kể bạn ở trong thế gian này hưởng giàu sang đến mức nào, tuy bạn hưởng giàu sang, oán thân chủ nợ của bạn cũng vẫn vây quanh bạn, quan sát kỹ lưỡng thì thấy ngày tháng của họ chẳng thoải mái tí nào, chúng ta phải rõ ràng, phải minh bạch.  Chúng ta gặp được Phật pháp nên mới tìm ra một con đường sống sót, một lối thoát, thoát khỏi sanh tử luân hồi, tạm thời thoát khỏi những oán thân chủ nợ này, chẳng phải là thoát khỏi vĩnh viễn, chỉ là tạm thời thoát khỏi.  Sau khi thoát khỏi, chúng ta đến tây phương Cực Lạc thế giới, đến đó làm Bồ Tát, làm Phật, rồi mới quay trở lại để trả nợ.  Trong kinh đức Phật nói rất rõ ràng ‘Phật chẳng độ người không có duyên’, oán thân chủ nợ đối với tôi đều có duyên, tương lai tôi sẽ độ họ.  Từ đây có thể biết oán thân chủ nợ nhiều cũng không phải là không tốt, cũng tốt, tương lai độ chúng sanh nhiều; quay trở lại giúp họ thành Phật, giúp họ cũng có thể thoát khỏi biển khổ, câu sau cùng:

Nhược ngộ võng bổ sanh sồ giả, thuyết quách nhục phân ly báo.
Nếu gặp kẻ đặt lưới, giăng bẫy để bắt các sinh vật còn non yếu thì dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa.

Ðây cũng là việc tôi đích thân từng trải, tôi đã làm chuyện này, chịu báo ứng này.  Trong đời tôi, người thân không thể đoàn tụ.  Lúc mở quyển kinh này ra, tôi tạo cái nhân này, chịu quả báo này, vô cùng rõ ràng, thật là minh bạch, đích thân trải qua nên cảm thọ vô cùng sâu đậm.  Xem tiếp đoạn dưới:

Nhược ngộ hủy báng Tam Bảo giả, thuyết manh, lung, âm, á báo
Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo thì dạy rõ quả báo đui, điếc, câm, ngọng

Những lời này đức Phật nói trong kinh đều là nói về hoa báo, quả báo là ở địa ngục.  Chúng ta gộp câu dưới đây xem một lượt:

Ngược ngộ khinh pháp mạn giáo giả, thuyết vĩnh xử ác đạo báo
Nếu gặp kẻ khinh chê giáo pháp thì dạy rõ quả báo ở mãi trong ác đạo.

Chúng ta gộp hai câu này để giảng.  Coi thường Phật pháp, chểnh mảng việc hoằng pháp, ‘Giáo’ là hoằng pháp lợi sanh, dùng tâm khinh mạn đối với những chuyện này; nói cách khác, chẳng coi trọng.  Tại sao lại có quả báo nặng nề như vậy?  Từ Phật pháp chúng ta cũng có thể liên tưởng đến thế pháp, trong thế pháp thì giáo dục là căn bản, căn bản của hạnh phúc cá nhân, căn bản của gia đình mỹ mãn, căn bản của xã hội an định, căn bản của hòa bình thế giới; nếu bạn phá hủy căn bản thì thế gian này làm sao chẳng loạn cho được?  Sự giáo học của nhà Nho nói thật ra, chánh sách, phương hướng, mục tiêu của giáo dục Trung Quốc là do Hán Võ Ðế chế định.  Quốc gia lấy chuyện này làm tông chỉ giáo học, mãi cho đến Mãn Thanh, triều đại không ngừng biến đổi nhưng chánh sách giáo học của Trung Quốc chẳng có thay đổi, suốt cả hai ngàn năm không thay đổi.  Vào một lúc nào đó nếu quốc gia thật sự chấp hành, có thể làm thêm vài phần thì quốc thái dân an; nếu chẳng coi trọng thì thiên hạ đại loạn, có thể thấy chứng cớ rất rõ ràng trong lịch sử.  Trong ‘Học Ký’ có nói ‘Xây dựng đất nước, cai trị nhân dân, giáo học đứng hàng đầu’, chẳng sai tí nào.  Xây dựng một quốc gia, một chánh quyền, lãnh đạo nhân dân toàn quốc thì việc gì quan trọng nhất?  Giáo dục, giáo học đứng đầu.  Nếu khinh thường giáo, [khinh] mạn pháp thì vấn đề sẽ rất nghiêm trọng.

Từ xưa đến nay Trung Quốc chẳng dùng ‘pháp’ để trị quốc, người Tây phương hiện nay nói về ‘pháp trị’, người Trung Quốc chúng ta cao minh hơn họ, người Trung Quốc dùng ‘lễ trị’.  Từ xưa đến nay Trung Quốc nói về ‘Ðạo, Ðức, Nhân, Nghĩa, Lễ’, dùng năm thứ này để trị thiên hạ, trị quốc.  ‘Lễ chi dụng, hòa vi quý’, Phật pháp chúng ta nói về ‘Lục Hòa kính’, họ tuy không nói đến Lục Hòa, ít nhất thì họ cũng nói về Tam Hòa.  Ngày nay chúng ta đến Bắc Kinh thăm viếng Cố Cung của triều nhà Thanh, cố cung này trải qua ba triều Nguyên, Minh, Thanh, hoàng đế của ba triều đại này đều ở nơi ấy, suốt bảy trăm mấy năm.  Ngôi kiến trúc chánh của cố cung, nhân gian chúng ta gọi là ‘Kim Loan Ðiện’, thật ra chẳng gọi là Kim Loan Ðiện, mà gọi là Thái Hòa Ðiện, nói đến ‘Hòa’.  Phía sau Ðiện Thái Hòa là Ðiện Trung Hòa, sau nữa là Ðiện Bảo Hòa.  Bạn nghĩ xem có ý nghĩa gì?  Ðế vương có trí huệ, thông minh, dùng Hòa để trị thiên hạ.  Ý nghĩa này sâu rộng vô cùng, cho nên họ có thể kéo dài hai trăm sáu mươi mấy năm, chẳng phải là không có đạo lý.  Nếu những hoàng đế cuối triều Thanh như Từ Hi còn giữ nguyên lý nguyên tắc của tổ tiên thì ngày nay [có lẽ] vẫn còn là thiên hạ của triều nhà Thanh, vẫn còn đại Thanh quốc, làm sao có thể mất nước được?  Vô cùng đáng tiếc, con cháu cuối đời đều quên hết giáo huấn của tổ tông, mặc tình phóng túng nên mới mất nước.

Cho nên căn cứ trên nguyên lý và nguyên tắc của giáo dục Trung Quốc thì một triều đình xây dựng có thể kéo dài ngàn năm, muôn đời, chỉ cần bạn làm theo thì người dân ai nấy đều hưởng phước, chẳng nghĩ đến phải lật đổ chánh quyền.  Tại sao?  Chánh quyền quá tốt, chánh phủ quá tốt, được dân cả nước ủng hộ.  Nếu bạn làm không được thỏa mãn, trái nghịch nhân tâm thì người dân mới tạo phản.  Nếu bạn có thể thuận theo nhân tâm, có thể hết thảy đều yêu dân như con, hết thảy đều chiếu cố rất chu đáo, yêu mến họ, lo lắng cho họ, dốc hết tâm lực để chiếu cố đời sống của họ, làm sao không được nhân dân ủng hộ?  Chánh quyền như vậy sẽ [duy trì] ngàn năm, muôn đời, là lẽ đương nhiên.  Nếu bạn chẳng yêu nhân dân, bạn chà đạp nhân dân, chẳng bảo hộ nhân dân, chẳng lo cho sự sống còn của nhân dân thì nhân dân đương nhiên sẽ tạo phản.  Lịch sử là một tấm gương sáng rõ ràng, kinh luận là học vấn, lịch sử là giám sử[15], là chứng minh cho chúng ta.

Giáo dục của nhà Phật đối với ảnh hưởng trị loạn trong xã hội Trung Quốc cũng vô cùng rõ ràng.  Các triều đại Trung Quốc, triều đại nào hưng vượng nhất thì Phật pháp hưng thạnh, triều đại nào suy bại nhất thì Phật pháp cũng suy bại, trong ấy có nhân quả liên đới lẫn nhau.  Tại sao lại có hiện tượng này?  Phật pháp dạy người việc thiện.  Phật pháp hưng vượng, nhân tâm lương thiện; Phật pháp suy bại, nói cách khác, người tin Phật ít, người thiện ít, tâm thiện ít thì người ác sẽ nhiều.  Thế nên sau khi Phật pháp truyền đến Trung Quốc, những vua chúa các triều đại Trung Quốc chẳng có một ai không hết lòng nỗ lực để học tập, phát triển hoằng dương Phật pháp, giáo dục nhà Phật phổ biến đến nhân gian, tạo nên phong khí tốt đẹp trong xã hội.  Người người đều biết nhân quả báo ứng thì khởi tâm động niệm tự nhiên biết thâu liễm, chẳng cần pháp luật.  Ðây tuyệt đối không phải là chánh sách ngu dân; tuyệt đối chẳng phải lường gạt lão bá tánh, trong ấy có chân lý, chân tướng sự thật.  Câu kế tiếp:

Nhược ngộ phá dụng Thường Trụ giả, thuyết ức kiếp luân hồi địa ngục báo.
Nếu gặp kẻ phá hoại của Thường Trụ thì dạy rõ quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục.

‘Phá dụng Thường Trụ’, phía trước đã nói đây là thuộc về giới trộm cắp.  Trộm vật thường trụ, trong kinh đức Phật nói tạo tội nặng gì Phật, Bồ Tát cũng có thể cứu, chỉ có trộm đồ thường trụ thì Phật không thể cứu.  Nếu chúng ta phạm tội này thì phải làm sao?  Tội này rất dễ phạm.  Chúng ta trộm cắp, trộm vật của một người thì kết tội nhẹ, tương lai trả nợ thì chỉ trả một người.  Nếu trộm đồ của quốc gia thì rất phiền phức, tương lai trả nợ thì phải trả hết những người trong nước đó, họ đều là chủ nợ.  Tài vật của quốc gia từ đâu đến?  Ðến từ tiền thuế nhân dân đóng thuế.  Thế nên người nào cũng là chủ nhân, tương lai trả nợ thì bạn trả cho từng người.  Trung Quốc có mười ba ức người, mười ba ức người này đều là chủ nợ của bạn, bạn phải trả nợ ‘mệt nghỉ’.  Thường trụ trong nhà Phật càng ghê gớm hơn nữa, nhưng chư vị phải biết hiện nay sự thật chẳng phải vậy.

Lúc trước tôi giảng kinh ở Ðài Loan có một lão cư sĩ, cụ đã qua đời, vãng sanh nhiều năm rồi.  Có một lần cụ đặc biệt mời tôi ăn cơm, chỉ mời một mình tôi, chỉ có hai người chúng tôi vào tiệm ăn.  Tôi nói: “Lão cư sĩ hôm nay mời tôi có chuyện gì không?”  Cụ nói: “Tôi có một vấn đề rất nhức đầu muốn hỏi pháp sư.”  Tôi nói: “Vấn đề gì?”.  Cụ nói: “Phá hòa hợp Tăng, ăn cắp đồ của Thường Trụ phải đọa địa ngục A Tỳ, vĩnh viễn chẳng thể thoát thân, phải làm sao đây?”  Nghe xong tôi cười và nói: “Cụ ở chỗ nào nhìn thấy phá hòa hợp Tăng, cụ thấy ở đâu?”  Tôi vừa hỏi như vậy, cụ suy nghĩ một lát rồi cũng đờ người ra.  Tôi nói: “Cả đời tôi đi giảng kinh thuyết pháp ở nhiều nơi, tôi chưa từng gặp Tăng Ðoàn hòa hợp.”  Tại sao vậy?  Người xuất gia đều ở đó cãi lộn, đấu tranh.  Tôi nói: “Cụ ở đâu tìm được một Tăng Ðoàn hòa hợp?”  Vật thường trụ hiện nay là vật thường trụ gì?  Chùa miếu đó là ‘nhà’ của người đó, đó không phải là thập phương thường trụ, chúng ta đến nơi đó quải đơn [16] cũng không được, họ chẳng cho phép, vậy thì đâu phải là vật thường trụ?  Ðó là nhà của người đó.  Tôi vừa nói xong thì cụ ấy mới vỡ lẽ.  Tôi nói: “Việc phá hòa hợp Tăng đó chẳng phải là ‘phá hòa hợp Tăng’ [theo đúng ý nghĩa], mà là phá nhà của người đó”; trộm vật thường trụ là trộm vật trong nhà người đó, tội đó chẳng có nặng cho lắm.  Có ba người, năm người trú trong chùa ấy thì tương lai trả nợ cho ba, năm người.  Tôi nói: “Cả đời tôi chưa từng gặp Tăng đoàn hòa hợp, chưa gặp đạo tràng thập phương thường trụ, chưa từng gặp”.  Lại nói “Nếu cụ gặp thì nói cho tôi biết”.  Sau đó cụ suy nghĩ một lát cũng nói chưa từng gặp qua.  Tôi nói: “Vậy thì được rồi, chúng ta hãy dùng cơm”.

Thế nên hiện nay miếu gọi là miếu của con cháu, miếu nhỏ, đã biến chất rồi, chẳng phải thập phương thường trụ.  Tương lai Cư Sĩ Lâm ở đây, Làng Di Ðà xây xong, đó là thập phương thường trụ.  Nếu trộm cắp đồ vật ở trong ấy thì kết tội cũng giống như đã nói trong kinh.  Ðạo tràng Cư Sĩ Lâm ở Tân Gia Ba tuy là do cư sĩ tại gia tạo dựng, nhưng đạo tràng này là thập phương thường trụ, bốn chúng đệ tử trong nhà Phật đều có thể quải đơn, đều sẽ không từ chối.  Sau khi Làng Di Ðà xây dựng xong thì còn thù thắng hơn nữa.  Cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói với tôi, bất cứ người niệm Phật ở quốc gia, địa phương nào, người xuất gia cũng vậy, tại gia cũng vậy, chỉ cần xin được quyền cư trú hợp pháp ở Tân Gia Ba thì đạo tràng này đều sẽ cung ứng [chiếu cố].  Bạn ở đây thật thà niệm Phật, tứ sự cúng dường [đều đầy đủ], cúng dường cho đến khi bạn vãng sanh, đây là thường trụ, chân chánh là thập phương thường trụ.  Cư Sĩ Lâm, các bạn xem trai đường ở tầng dưới, mỗi ngày ba bữa cung ứng theo lối ăn tiệc Lưu Thủy [17], ăn cơm khỏi phải trả tiền, chẳng kể bạn tin Phật hay không tin Phật, bạn đến thì đều có cơm ăn.  Thậm chí nếu bạn báng Phật, hủy báng Phật pháp, khi bạn bước vào cửa thì cũng để cho bạn dùng cơm, tuyệt đối chẳng từ chối.  Chúng tôi thấy ở Cư Sĩ Lâm có rất nhiều người theo đạo khác, đạo Cơ Đốc, đạo Thiên Chúa, người ở gần đây đều tới dùng cơm, đều cúng dường tất cả, cúng dường một cách bình đẳng, đây là thập phương thường trụ.  Thế nên ở nơi đó mỗi ngày có [cung ứng] ba bữa ăn, bạn hãy ăn tự nhiên, nhưng bạn không thể lén lút lấy gạo, đồ ăn ở đó đem về nhà, như vậy thì rắc rối ghê lắm, sự kết tội ấy là thập phương thường trụ kết tội, chẳng thể được.  Người ta mở tiệm ăn chay, quán chay, bạn vào trong đó ăn cắp thì tội đó rất nhỏ, chẳng sao cả.  Cư Sĩ Lâm là thập phương thường trụ, sự kết tội ở đó sẽ rất nặng.

Thế nên ngày nay chúng ta gặp được thập phương thường trụ thì thật chỉ có Cư Sĩ Lâm mà thôi.  Họ chỉ có một điều kiện, bạn chân tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ thì bạn có thể thường trú ở đạo tràng ấy.  Nhưng người hiện nay không thật thà, vì mục đích ngăn ngừa tệ đoan, có một số người giả vờ đến đó niệm Phật, tiếp nhận cúng dường thì chúng ta đã bị gạt, bị lừa rồi sao?  Thế nên luật lệ ở đó là khi bạn đến Niệm Phật Đường để niệm Phật, những người cư trú ở đó phải điểm danh, liên tiếp ba lần không có mặt thì sẽ mời bạn rời khỏi, mời bạn đi khỏi, ở đó chẳng nhận cho bạn cư trú nữa.  Bạn phải đến Niệm Phật Đường, một khóa cũng không thiếu thì thường trụ ở đó sẽ hoan nghinh, cúng dường bạn; bạn thật sự vì sanh tử, thật sự muốn thoát ra khỏi tam giới, thật sự muốn cầu sanh Tịnh Độ, họ hoan hỷ cúng dường cho bạn, thế nên duyên này vô cùng thù thắng.  Lúc chúng tôi giảng kinh Hoa Nghiêm đã có nói với chư vị, Tỳ Lô Giá Na Phật xây dựng Hoa Tạng thế giới, cúng dường và thành tựu cho những người tu hành; A Di Ðà Phật xây dựng Cực Lạc thế giới giúp cho những người niệm Phật, thành tựu cho họ làm Phật.  Ngày nay Cư Sĩ Lâm thành lập đạo tràng này để thành tựu cho những người niệm Phật ở mọi địa phương trên thế giới, giúp cho họ vãng sanh Tịnh Ðộ, chẳng thể nghĩ bàn.  Ðây thật sự là đạo tràng hy hữu khó gặp trên thế giới.  Thế nên vật thường trụ chúng ta phải hiểu rõ, nhân quả trong ấy chẳng thể nghĩ bàn.

Nhược ngộ ô phạm vu tăng giả, thuyết vĩnh tại súc sanh báo
Nếu gặp kẻ ô nhục phạm hạnh và vu báng Tăng Già thì dạy rõ quả báo ở mãi trong loài súc sanh

‘Ô’ là ô nhiễm, trong Phật pháp là phạm tội dâm dục.  ‘Vu’ là hủy báng, hủy báng người xuất gia, đây là ‘vĩnh tại súc sanh báo’.  ‘Vĩnh tại súc sanh báo’ cũng là sau khi chịu báo trong địa ngục xong rồi thọ súc sanh báo, quả báo này chắc chắn là trong địa ngục.  Thanh Liên pháp sư trong đoạn văn này dẫn ra một đoạn trong ‘Thắng Thiên Tử kinh’ nói đến việc phó chúc chúng ta lưu thông bộ kinh này, ‘Nếu có pháp sư lưu thông kinh này’, lưu thông nghĩa là như thế nào?  Có phải là chúng ta in ra nhiều một chút rồi đem tặng cho người ta thì gọi là ‘lưu thông’?   Chẳng phải, phạm vi đó quá nhỏ hẹp.  Y giáo phụng hành mới gọi là lưu thông, chúng ta phải làm gương cho người ta coi, đó gọi là lưu thông, vậy mới hữu dụng, mới thật sự có lợi ích cho chúng sanh.  Ðây là việc mà trong kinh thường nói đến: thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói.  Diễn là biểu diễn, làm ra cho người ta coi, chân chánh là y giáo phụng hành, triệt để y giáo phụng hành.  Chỗ có pháp sư, có kinh điển, có đạo tràng chính là chỗ có chư Phật Như Lai, công đức lợi ích này Phật, Bồ Tát cũng nói chẳng hết, chúng ta phải hiểu đạo lý này.  Xem tiếp kinh văn:

Nhược ngộ thang hỏa trảm chước thương sanh giả, thuyết luân hồi đệ thưởng báo
Nếu gặp kẻ nấu, nướng, chém, chặt, hoặc đả thương sanh vật, thì dạy rõ quả báo phải luân hồi đền trả lẫn nhau

Phía dưới nói về tạp nghiệp báo, phía trên [những gì] chúng ta nhìn thấy đều là ác nghiệp.  Ðọc xong chúng ta cảm khái muôn vàn, đều đã từng tạo.  ‘Thang hỏa’ là gi?  Lấy thịt chúng sanh đem nấu.  Lúc xắt thịt thì dùng dao khứa từng miếng, ‘trảm chước’.  Ngày nay chúng ta sát hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh, trong kinh đức Phật nói‘Người chết làm dê, dê chết làm người’, tương lai chúng ta chết đi đọa vào nẻo súc sanh, chúng nó sanh làm người thì cũng sẽ chặt, chém chúng ta ra từng miếng mà ăn, ‘quả báo luân hồi đền trả lẫn nhau’.  Ngày nay chúng ta ăn thịt nó, tương lai nó ăn thịt chúng ta, cứ đền trả lẫn nhau dây dưa chẳng dứt.  Hiện nay tai nạn trên thế gian nhiều như vậy là vì nguyên nhân gì?  Sát nghiệp quá nặng.  Không những các chúng sanh này ăn thịt, mà còn ăn sống nữa, bạn nói vậy thì làm sao được!  Hiện nay tại sao tai nạn xảy ra nhiều gấp mấy lần lúc trước?  Chúng ta bình tĩnh nghĩ thử xem, năm chục năm, sáu chục năm về trước, lúc kháng chiến và thời gian trước đó, đây là việc tôi đích thân trải qua.  Lúc đó đời sống nhân dân rất khổ, ở thôn quê khoảng một tháng mới bán thịt một lần, đâu phải ngày nào cũng có thịt mà ăn?  Là việc chẳng thể nào có được.  Cả mấy làng một tháng mới hợp lại làm thịt một con heo.  Lúc làm thịt heo thì tìm một cây cao, trên cây để một cành tre, trên cành tre treo một miếng giấy vàng, mọi người nhìn thấy thì biết ngày hôm ấy có bán thịt ở đó, mới đi đến đó mua nửa cân, một cân thịt, mỗi tháng mới ăn thịt một lần.  Chỉ có vào dịp tết thì mới có thịt ăn mỗi ngày, do đó con nít đều mong cho đến tết.  Hiện nay thì mỗi ngày đều là tết, mỗi ngày đều ăn thịt, mỗi ngày đều sát sanh, tai nạn quả báo bèn lập tức hiện tiền.  Chúng ta phải bình tĩnh mà quan sát, mà suy tư, thì sẽ tìm ra nguyên nhân thật sự.  Thiên tai nhân họa xảy ra dồn dập không dứt, nhìn thấy mà ghê sợ, chẳng biết nguyên nhân, như vậy là ngu muội, vô tri.

Không tin lời thánh nhân thế gian, xuất thế gian nói, chẳng đọc sách thánh hiền, chẳng tin lời thánh hiền nói, cho rằng tự mình thông minh trí huệ hơn người xưa, người xưa lạc hậu rồi.  Trí huệ, thông minh của người hiện nay vượt trội hơn người xưa quá nhiều, người xưa đốt đèn dầu đâu có sáng bằng đèn điện hiện nay?  Người hiện nay thông minh hơn người xưa, họ nói rất hùng hồn, nghe rất có đạo lý, nhưng thật ra chẳng có đạo lý.  Trí huệ thông minh của người xưa có thể phát triển kỹ thuật khoa học như ngày nay hay chăng?  Họ có khả năng này, có trí huệ này.  Tại sao không làm?  Họ có đại đạo lý của họ.  Nếu hai ngàn năm trước đã bắt đầu làm thì thế giới này đã sớm hủy diệt từ lâu rồi.  Thế nên họ chẳng chịu phát triển, hy vọng người đời trụ ở thế gian lâu dài, an ổn, sống đời sống chân chánh của con người.  Người hiện nay chẳng sống cuộc đời con người, mà là sống làm nô lệ cho cơ giới, khoa học, kỹ thuật, chứ đâu phải là sống đời con người?  Ý vị tình người chẳng còn nữa, ngay cả nằm mộng bạn cũng chẳng nghĩ ra.  Chúng ta đọc sách cổ xưa, bạn hãy coi văn chương, tác phẩm văn học của người xưa, người thuở xưa sống trong tình thơ ý họa, đẹp đẽ biết bao!  Ðời sống của con người hiện nay, sinh sống ở đâu?  Trong yêu ma quỷ quái.  Tôi chẳng tiếp xúc, lâu lâu nhìn thấy những hình ảnh ca vũ trên TV, đó là gì?  Yêu ma quỷ quái.  Âm thanh ấy giống như quỷ khóc, sói tru, [họ] sống cuộc đời như vậy.  Họ đâu có hưởng thụ gì đâu, chúng tôi nhìn thấy rất tội nghiệp cho họ, hoàn toàn là điên cuồng, giống như hút ma túy, chích morphine nên trở thành như vậy, đâu có phải là hình dáng của con người nữa?  Chẳng bình thường tí nào.  Thế nên chúng ta nhất định phải cảnh giác, cảnh giác một cách cao độ.

Chúng ta làm việc trong nhà bếp, đọc tới câu này có thể nào chẳng kinh hồn hoảng vía ư?  Ðọc qua đoạn này trong kinh Ðịa Tạng thì nhất định sẽ chẳng dám ăn thịt nữa, chẳng dám sát sanh nữa.  Chúng ta học Phật, tuy là mình hiểu được đạo lý này, người nhà chẳng tin, họ vẫn còn muốn ăn thịt; mỗi ngày đều phải cắt xẻ cho họ, vẫn còn chặt thịt, vẫn phải nấu nướng cho họ thì phải làm sao?  Tôi khuyên bạn, tốt nhất mỗi ngày niệm một cuốn kinh Ðịa Tạng hồi hướng cho người nhà.  Bạn có tâm chân thành, Tam Bảo gia trì, tương lai tâm niệm của họ sẽ từ từ chuyển đổi trở lại, chân thành có thể cảm động con người.  Dùng tâm chân thành thay thế cả nhà, cả nhà đều là oán thân chủ nợ, tôi chẳng ăn nhưng phải làm thay cho họ, như vậy không phải là oán thân chủ nợ ư?  Thế nên bạn phải thay họ hồi hướng, sám hối, một ngày nào đó họ sẽ cảm động, họ sẽ quay lại.  Nếu họ không thể quay lại, chẳng cảm động, đó là vì tâm chân thành của chúng ta chẳng đủ, sức lực của chúng ta chưa đạt đến mức, phải tự trách mình.  Nhất định phải tìm thời gian để sám hối thay họ, lạy Ðịa Tạng Bồ Tát nhiều thêm, có thể lạy ba trăm lạy mỗi ngày, một ngàn lạy mỗi ngày, dùng tâm chí thành cầu sám hối thì mới tiêu nghiệp chướng.  Hồi hướng công đức bạn tu được cho những chúng sanh ấy, hồi hướng gia trì cho họ, hy vọng họ sớm được sanh đến cõi lành.  Việc hồi hướng thứ nhì hy vọng người nhà có thể tiêu trừ nghiệp chướng, khai trí huệ, dứt ác, tu thiện, vĩnh viễn chẳng ăn thịt chúng sanh.  Như vậy bạn hành hạnh Bồ Tát ngay trong gia đình bạn, gia đình chính là đạo tràng của bạn.  Ðộ chúng sanh thì độ người nhà trước, sau đó độ thân quyến, bạn bè, hàng xóm, bạn phải làm ra cho người ta thấy.  Thế nên học Phật mà người nhà không được độ thì bạn chẳng có thành tựu gì hết, bạn thành tựu rất có hạn.  Nếu bạn có thể cảm động người nhà của bạn thì sự học Phật của bạn mới kể là có một chút thành tựu, có một chút thành tích.  Nếu người nhà của bạn không thể cảm động thì bạn chẳng có thành tích gì đáng nói.

Nhược ngộ phá giới phạm trai giả, thuyết cầm thú cơ ngạ báo’
Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai thì dạy rõ quả báo làm thân cầm thú đói khát

Việc phá giới thì mọi người đều biết.  ‘Phạm trai’, cái gì gọi là ‘trai’?  Hiện nay một số người cứ tưởng ăn chay nghĩa là ‘trai’, ăn chay, thật ra là hiểu sai rồi.  ‘Trai’, trong nhà Phật chúng ta gọi là ‘quá trung bất thực’ (không ăn quá giữa ngày), chẳng phải là quá ngọ (quá 12 giờ trưa), quá ngọ cũng sai.  Hiện nay một số người gọi là ‘trì ngọ’, nói như vậy không đúng, quá trung bất thực, quá trung [nghĩa là quá giữa ngày].  Nếu dùng chữ ‘ngọ’, giờ ngọ là từ 11 giờ tới 1 giờ trưa, giờ ‘ngọ’ dài hai tiếng đồng hồ.  [Phải nói là] không ăn quá giữa ngày.  Thế nên người trì trai hiện nay tốt nhất là phải dùng lịch thiên văn, vì thời điểm ‘giữa ngày’ đều khác nhau, thời điểm này đều có xê xích từng ngày, lịch thiên văn là chính xác nhất.  Thời điểm giữa ngày vào lúc mấy giờ, mấy phút, mấy giây, sau giữa ngày bạn không thể ăn thì mới thật sự là ‘trì trai’.  Lúc trì trai mà phạm trai (tức là ăn quá giữa ngày) thì có tội.

Phật, Bồ Tát trì trai là để cho chúng sanh học theo, người thế gian chẳng ai không tham ăn, mỗi ngày ăn ba bữa, còn phải ăn điểm tâm, ăn buổi tối, đây đều là lỗi.  Trong vấn đề ăn uống, không hay không biết lại tạo ra rất nhiều tội nghiệp, họ chẳng biết.  Thế nên người xuất gia thị hiện làm gương cho họ coi, quý vị một ngày ăn nhiều như vậy, đòi hỏi dinh dưỡng nhiều như vậy mà thân thể cũng không khoẻ gì cả; chúng tôi một ngày ăn một bữa cũng chẳng thua kém gì thân thể quý vị.  Làm cho họ từ điểm này phản tỉnh và giác ngộ, thực sự hiểu được đạo dưỡng sinh.  Người hiện nay [tưởng rằng] dưỡng sinh là phải hấp thụ thật nhiều dinh dưỡng, người Trung Quốc chúng ta hồi đó tới giờ chưa từng nói đến dinh dưỡng.  Ở Trung Quốc đại lục có một số nơi còn lạc hậu nghèo nàn, họ làm sao hiểu được dinh dưỡng là gì?  Nhưng thật kỳ lạ, họ đều sống rất lâu, thọ mạng con người ở thôn quê rất dài, người sống trên một trăm tuổi rất nhiều.

Lúc trước tôi cư trú ở Mỹ, hình như lúc đó Ðại Lục vừa mới mở rộng [18], vừa mới mở rộng chẳng lâu.  Mỹ đã từng phái một số người đến Trung Quốc Ðại lục để tìm hiểu, nghiên cứu tại sao mức vệ sinh của người Trung Quốc tệ như vậy mà họ có thể sống lâu?  Người Mỹ chuyện gì cũng đòi hỏi [tốt nhất] nhưng lại không sống lâu, họ muốn nghiên cứu về đạo lý này [nhưng] chẳng tìm được nguyên do.  Coi đời sống ăn uống của họ (người Trung Quốc) so với tiêu chuẩn của Mỹ thì thua quá xa, nhưng người Trung Quốc lại sống lâu.  Dùng phương pháp khoa học gì để nghiên cứu cũng tìm chẳng ra, họ chẳng hiểu nổi.  Nguyên nhân của sự sống lâu ở đâu?  Tâm địa thanh tịnh, vọng niệm ít, phiền não thật sự [là nguyên nhân] đoạt mất mạng sống con người.  Phiền não của người Mỹ rất nặng, quá nặng, người Mỹ trẻ tuổi khoảng dưới hai mươi lăm tuổi coi còn được, vóc dáng còn rất đẹp, trên ba mươi tuổi thì thôi khỏi nói.  Vết nhăn trên mặt hiện ra từng đường, rất nhiều vết nhăn, người Trung Quốc chúng ta, quý vị coi thử đâu có vết nhăn [gì đâu].  Tại sao lại có nhiều vết nhăn như vậy?  Phiền não quá nhiều đấy mà.  Nhiều ở chỗ nào?  Áp lực đời sống.

Bạn phải biết đời sống của người Mỹ [bề ngoài] hình như rất tốt đẹp, [nhưng] đều là do trả nợ mà có đấy.  Mua nhà phải vay mượn, mua nhà phải trả bao nhiêu?  Chẳng đến một phần mười.  Thí dụ căn nhà mười vạn đồng, chỉ cần trả [trước] năm ngàn là được.  Sau đó từ từ trả dứt trong vòng hai mươi năm, ba mươi năm, mỗi tháng trả góp và trả tiền lời, phải mượn tiền ngân hàng.  Những đồ vật dùng trong nhà của họ như xe hơi, tủ lạnh, thậm chí tôi nói cho các bạn biết khi họ mua đồ ăn cũng mua thiếu chịu.  Khi bạn mua đồ ăn, mua rau cải, mua gạo, v. v…, thì dùng thẻ tín dụng (credit card); thẻ tín dụng là do ngân hàng cấp cho bạn, ngân hàng cho mua chịu.  Bạn vất vả đi làm, mỗi ngày làm việc là nhằm để trả tiền mượn ngân hàng, trả tiền bảo hiểm.  Cả đời họ làm việc, làm việc hằng ngày là để trả nợ, bạn hãy nghĩ xem áp lực đời sống của họ bao lớn.  Thế nên họ phải hết lòng nỗ lực để làm việc, họ chẳng dám giải đãi, chẳng dám làm biếng.  Tại sao vậy?  Vừa mới làm biếng, vừa mới giải đãi thì công ty đuổi bạn lập tức.   Thế thì bạn ‘rồi đời’, tất cả đồ đạc trong nhà bạn sẽ bị ngân hàng tịch thâu đem bán đấu giá để trả nợ.  Ðời sống của họ rất cực khổ, rất đáng thương, bạn chẳng cư trú ở ngoại quốc thì không hiểu tình huống của họ, thật là rất khổ.

Lần đầu tiên tôi về thăm tổ quốc, đi cùng với Hàn Quán Trưởng về quê của bà ở Ðại Liên, ở đó có không ít bạn bè, thân thích ra tiếp đón, mời chúng tôi dùng cơm.  Họ biết chúng tôi từ Mỹ đến, họ vô cùng ngưỡng mộ.  Tôi nói với họ, tôi nói đời sống của người Mỹ chẳng bằng họ, họ chẳng tin, họ nói tôi gạt họ, an ủi họ.  Tôi quay lại hỏi họ, lúc đó có khoảng ba mươi mấy người ngồi ở đó, tôi nói: quý vị ba mươi mấy người [ở đây], tôi hỏi quý vị có ai sinh sống phải trả nợ không?  Họ nhìn lẫn nhau, chẳng có ai cả.  Người Mỹ làm sao sánh bằng quý vị!  Người Mỹ từ lúc sanh ra liền phải trả nợ, đến chết còn trả chưa hết nợ.  Ðời sống của họ là như thế nào?  Ðời sống của quý vị là như thế nào?  Tuy bề ngoài đời sống của quý vị hình như nghèo hơn họ, quý vị chẳng có nhà lầu, chẳng có xe hơi, nhưng sau khi quý vị đi làm về, vài người bạn tụ lại với nhau, ăn vài hạt đậu phộng, nhâm nhi ly rượu, nói chuyện rất là thoải mái, người ngoại quốc có nhàn nhã, hưởng thú thanh nhàn như vậy không?  Chẳng có.  Cả đời cũng chẳng thể sống một ngày như vậy, đầu óc từ sáng tới tối luôn luôn khẩn trương, thế nên người ngoại quốc rất dễ suy lão, nguyên nhân là ở chỗ này.

Chúng ta hiểu được bối cảnh văn hóa của họ, nói thật ra họ ngưỡng mộ người Ðông Phương.  Chúng ta còn có tiền dành dụm, còn có thể gom góp được một chút tiền, họ không có.  Trong gia đình người Mỹ có thể tìm được hai chục đồng tiền mặt là rất hiếm có, [ít] có nhà nào có nhiều tiền mặt như vậy.  Tôi nói lời chân thật với mọi người, tôi ở Mỹ hết mười lăm năm, đã đi đến nhiều thành thị.  Cả thế giới choáng váng vì cơn bão kinh tế, nhưng người Trung Quốc bị ảnh hưởng tương đối ít. Tại sao?  Người Trung Quốc ít mượn nợ, ít mượn tiền ngân hàng, chẳng mượn tiền, chẳng bị áp lực.  Nguyên lý kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa trên toàn thế giới ngày nay là gì?  Tức là điều mà người Trung Quốc gọi là cho mượn với tiền lời cao.  Bạn mượn tiền họ, cuối cùng bị họ ép chết, họ để cho bạn có dịp sung sướng nhất thời, sau cùng mới đoạt mạng của bạn.  Chúng ta bình tĩnh khách quan xem xét rất rõ ràng, minh bạch.

Người Trung Quốc có phước, tự mình phải biết, phải hiểu, phải tự ái.  Ngày nay Trung Quốc còn chưa thể đạt được an định, đó là vì nguyên nhân khác.  Nếu trên phương diện nhân lực, tài nguyên có thể vận dụng được thích đáng, hết thảy những tai hại tự nhiên hoặc do người tạo đều có thể tránh khỏi, có thể làm được một quốc gia tốt nhất trên thế giới, làm mô phạm, làm gương mẫu cho hết thảy các quốc gia trên thế giới.  Mục đích cuối cùng là thế giới hòa bình, thế giới đại đồng, đây là sự cống hiến lớn nhất của người Trung Quốc đối với toàn thế giới, [đó là] ý nghĩa chân thật nhất.  Chúng ta phải nỗ lực làm, người xuất gia làm cho tròn bổn phận của người xuất gia là được rồi.  Ấn Quang đại sư dạy: Giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận. Tránh lòng Tà, giữ lòng Thành, Tin sâu nhân quả’ [19], thiên hạ sẽ thái bình.  Những câu nói này của lão nhân gia đích thật có thể cứu hết thảy chúng sanh trong chín ngàn năm đời Mạt pháp.  Kinh văn phía sau nói:

Nhược ngộ phi lý hủy dụng giả, thuyết sở cầu khuyết tuyệt báo
Nếu gặp kẻ phá hủy vật dụng một cách phi lý, thì dạy rõ quả báo mọi sở cầu đều thiếu hụt

Ðây thường được người ta gọi là ‘cầu bất đắc khổ’ trong ‘bát khổ’.  Bạn mong cầu, tại sao cầu không được?  Có nguyên nhân.  ‘Phi lý’ tức là ngày nay chúng ta chúng ta thường nói ‘bất hợp pháp, không hợp lý’, ‘hủy dụng một cách chẳng hợp tình hợp lý’.  Hủy là gì?  Hủy hoại, dụng là sự hưởng dùng mà bạn có được, sự hưởng thọ của bạn.  Hết thảy sự hưởng thọ của bạn ngày nay, chẳng kể là hưởng thọ vật chất hay tinh thần, sự hưởng thọ này chẳng hợp lý, chẳng hợp pháp, chẳng hợp tình, quả báo của bạn sau này sẽ là chẳng như ý, ‘cầu bất đắc’.

Nhược ngộ ngô ngã cống cao giả, thuyết ty sử hạ tiện báo.
Nếu gặp kẻ kiêu mạn cống cao thì dạy rõ quả báo làm nô dịch hèn hạ.

Cống cao ngã mạn sẽ có quả báo là hạ tiện, trong xã hội hiện nay rất rõ ràng; lúc mình có quyền, có địa vị thì ngạo mạn, ỷ quyền thế hiếp đáp người.  Vừa chớp mắt người ấy mất hết địa vị, phải đi tìm một công việc thấp hèn để sinh sống.  Phút chốc địa vị bị mất hết, bị kẻ khác sai bảo, quả báo ở ngay trong đời này chẳng cần phải đợi đến đời sau.  Ngày nay chúng ta thấy rất nhiều [người] thật rất vất vả mới leo lên một tầng lớp cao trong xã hội, vừa gặp một cơn bão táp kinh tế [suy thoái] lập tức công ty liền giảm nhân viên, công ăn việc làm mất hết, phải tìm công việc vặt vãnh để sinh sống, phải bị người ta sai bảo.  Hiện nay tại các nơi trên thế giới chỉ cần bạn quan sát kỹ lưỡng sẽ thấy rất nhiều kẻ chẳng biết khiêm tốn, tôn trọng người khác.  Người ở chức vị cao cũng phải tôn trọng những viên chức thấp, không thể mặc tình sai khiến, sau này phải bị quả báo không tốt.

Nhược ngộ lưỡng thiệt đấu loạn giả, thuyết vô thiệt bá thiệt báo.
Nếu gặp kẻ nói hai lưỡi gây xích mích thì dạy rõ quả báo không lưỡi hoặc trăm lưỡi.

‘Lưỡng thiệt’ là khêu chọc người khác, gây xích mích, làm cho hai bên chẳng hòa hợp, tạo tội nghiệp như vậy.  Người tạo tội nghiệp này nhiều, mục đích là muốn kiếm lợi, khiêu khích hai bên, khiêu khích thị phi.  Phía trước đã nói quả báo này, đây là thuộc về khẩu nghiệp; ác khẩu, nói lưỡi đôi chiều đều đọa địa ngục tên là địa ngục Kéo Lưỡi.  Quả báo ở địa ngục trả xong lại đọa súc sanh, trong loài súc sanh có loài chẳng có lưỡi, có loài trăm lưỡi, vẫn còn chịu quả báo này.

Nhược ngộ tà kiến giả, thuyết biên địa thọ sanh báo.
Nếu gặp kẻ tà kiến thì dạy rõ quả báo thọ sanh ở vùng biên địa.

Tà tri tà kiến, tà tri kiến cũng phải coi họ tạo nghiệp cạn hay sâu, rộng hay hẹp.  Nếu nghiệp ấy ảnh hưởng người khác ít thì quả báo của họ sẽ nhẹ; nếu tà tri tà kiến này ảnh hưởng nhiều người, thời gian ảnh hưởng lâu dài thì quả báo của họ sẽ nặng.  Có người hỏi tôi, những bài do người có tà tri tà kiến viết ra, sách của họ viết ra, hướng dẫn lầm lạc chúng sanh, tương lai họ phải đọa địa ngục đến khi nào mới có thể thoát ra?  Tôi nói với họ, tôi nói căn cứ vào kinh Phật.  Những cuốn sách mà họ viết ra trên thế gian này một cuốn cũng tìm chẳng ra thì họ mới thoát khỏi địa ngục.  Nếu có một thư viện nào đó còn giữ một cuốn thì họ còn rắc rối, họ sẽ chẳng thể thoát khỏi.  Do đó có thể biết, sách họ in càng nhiều thì càng phiền phức, tội của họ sẽ càng nặng, họ ảnh hưởng đến nhiều người, thời gian ảnh hưởng dài, cái tội này nặng lắm.  Thế nên chúng ta nói chuyện cũng phải cẩn thận, nếu có thâu âm lại thì cũng giống như sách vậy, đến khi nào băng thâu âm này hoàn toàn bị hủy diệt trên thế gian này, hoàn toàn mất hết, thì bạn mới thoát ra khỏi địa ngục.  Nếu còn một bộ được người ta giữ lại thì hỏng rồi, bạn sẽ chẳng thoát ra khỏi địa ngục.  Người xưa thường nói: ‘Bịnh từ miệng vào, họa từ miệng ra’, một tí cũng chẳng sai.  Thế nên Bồ Tát dạy chúng ta ‘Nói ít một câu, niệm thêm một câu Phật’.  Khi người ta nói chuyện mình nghe không rõ là tốt nhất, không cần biết họ nói cái gì, [mình cứ niệm] A Di Ðà Phật, niệm một câu này tốt hơn bất cứ cái gì.  Tại sao?  Chẳng cần phải nghe, đều chẳng có ý nghĩa, ngoài A Di Ðà Phật ra tất cả đều chẳng có ý nghĩa, bạn nghe những thứ ấy làm gì!  Thật thà niệm Phật nhất định sẽ được sanh Tịnh Ðộ, nghe những thứ thị phi này, những lời nói bá láp này, nhất định sẽ tạo lục đạo luân hồi, tăng thêm tội nghiệp của mình, chẳng đáng chút nào.

‘Biên địa thọ sanh’, biên địa là những chỗ mà ngày nay được gọi là văn hóa lạc hậu.  Trong đời này người sanh ở những chỗ văn hóa lạc hậu thì sẽ chẳng có cơ hội được giáo dục, họ làm sao không ngu si cho được?  Ngu si thì chắc chắn sẽ tạo tội nghiệp, thế nên quả báo này rất dễ sợ.  Xin xem tiếp đoạn kinh sau đây, Bồ Tát ở đây làm một kết luận cho chúng ta.

Như thị đẳng.
Những chuyện này

Ðây là chỉ những việc nói phía trên.  ‘Ðẳng’ là nhiều quá, nói không hết.

Diêm Phù Ðề chúng sanh, thân khẩu ý nghiệp.  Ác tập kết quả, bá thiên báo ứng, kim thô lược thuyết.
Trăm ngàn sự báo ứng kết quả bởi tập khí xấu ác từ thân, khẩu, ý nghiệp của chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề, nay chỉ nói sơ lược đó thôi.

‘Lược thuyết’ là báo cáo một cách sơ lược, đoạn này nói hết thảy chúng sanh hiện nay trên thế gian chúng ta, tạo nghiệp nhân ác.  Ngày ngày thân, khẩu, ý luôn tạo tác, thân tạo giết, trộm, dâm; [nếu bạn nói] tôi chẳng có giết, mỗi ngày bạn ăn thịt tức là sát sanh.  Tôi chẳng có sát sanh, chỉ là ăn thịt mà thôi; nếu bạn không ăn thịt thì người ta sát sanh làm chi?  Có lẽ người hiện đại không tin nhân quả, mặc tình giết hại, mặc tình ăn nuốt.  Lúc trước chúng tôi ở dưới quê, tôi không phải đã kể cho các bạn nghe rồi sao, mỗi tháng làm thịt một con heo, lúc giết heo người đồ tể đều có niệm chú cho heo, nói với heo rằng:

“Heo ơi, heo ơi, mày đừng giận tao.
Mày là một món ăn của người ta,
Người ta không ăn thì tao không chém mày,
Mày hãy tìm người ăn thịt mà đòi nợ”. 
Ông ta rất thông minh, người đồ tể này đổ hết tội báo cho người ăn thịt, kêu con heo đi kiếm người ăn thịt mà đòi nợ.  Do vì bạn ăn thịt thì ông ta mới sát sanh, nếu bạn không ăn thịt thì ông ta sẽ không sát sanh, ăn thịt là sát sanh gián tiếp, vẫn là tạo sát nghiệp mỗi ngày.  Nghiệp trộm cắp, nghiệp dâm dục chẳng có cách chi tránh khỏi.  Khẩu có bốn thứ nghiệp: vọng ngữ, nói lưỡi hai chiều, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt, có ai không tạo?  Trong ý nghiệp tràn đầy tham, sân, si.  Thế nên ngày nay chúng ta quan sát thế giới này, thân – ngữ – ý của hết thảy chúng sanh gia tăng từng năm, như vậy chịu sao nổi!  Ðây là nhân, rất đáng sợ!  Muốn ngưng cũng không ngưng được.  Ðừng nói tiêu nghiệp chướng, làm sao tiêu nổi?  Mỗi ngày luôn tăng thêm.  Làm sao không có quả báo cho được?  ‘Ác tập kết quả’, thân, ngữ, ý tạo mười loại ác nghiệp, tập khí ác nghiệp tích lũy thì quả báo bèn hiện tiền.  Ðây là quả báo thiên tai, nhân họa, tam đồ bát nạn;  tam đồ bát nạn là do vậy mà có.  ‘Bá thiên báo ứng’, bá thiên chẳng phải là con số, là tượng trưng cho vô lượng vô biên báo ứng, phía trước chỉ nói sơ lược mà thôi.

Ngày nay trong đời này nếu chúng ta thật sự muốn thoát ly tam giới, phải bắt đầu thay đổi từ chỗ nào?  Bắt đầu thay đổi từ tâm địa.  Phải làm cho tâm đạt đến mức thuần thiện, trong tâm chẳng có ác niệm, cái gì là ác?  Thập ác, đây là đơn giản nhất, chẳng có ý niệm ác này.  Ý chẳng có tư tưởng tà vạy, đây là tâm địa pháp môn.  Niệm niệm đều y giáo phụng hành.  Trong kinh Phật dạy những gì chúng ta nên làm thì chúng ta hết lòng nỗ lực đi làm.  Những gì Phật nói không thể làm thì chúng ta ngay cả móng ý cũng chẳng khởi, [được vậy thì] chính mình mới có thể tự độ, mới thật sự nắm vững.  Cho dù đời này chẳng vãng sanh Tịnh Ðộ, chẳng cầu sanh Tịnh Ðộ, đời sau chắc chắn sẽ được phước báo nhân thiên, sẽ chẳng đọa tam ác đạo.  Cho dù ngày nay thân, khẩu của chúng ta chẳng có ác hạnh, nhưng ý vẫn còn ác niệm, vẫn còn tư tưởng tà vạy, nói cho chư vị biết vẫn [tạo nghiệp] tam đồ, lục đạo y như cũ.  Do đó Tổ Sư, đại đức thời xưa dạy chúng ta tu từ căn bản, căn bản là gì?  Niệm đầu là căn bản.  Nếu bạn thích đọa tam ác đạo, chịu khổ nạn vô số kiếp thì cũng được, bạn cứ tiếp tục giữ những ác niệm và tư tưởng tà vạy đi.  Nếu bạn cảm thấy cái khổ tam đồ trong vô số kiếp, bạn nhìn thấy rất sợ, sợ hãi, chẳng cam chịu nhận lãnh, bạn phải sửa đổi tâm niệm từ ngày hôm nay.

Tiêu chuẩn ‘Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện kinh’ là một tiêu chuẩn rất tốt.  Các bạn đồng học Tịnh Tông ngày nay tại sao khóa tối chúng ta chọn kinh Vô Lượng Thọ phẩm ba mươi hai đến ba mươi bảy, những gì nói trong ấy hoàn toàn giống kinh Ðịa Tạng, đó là tiêu chuẩn thiện ác, không thể không biết.  Ác, nhất định phải đoạn dứt, đoạn không được cũng phải đoạn, không đoạn không được!  Nếu bạn không đoạn thì bạn nhất định sẽ đọa địa ngục, tự bạn dứt khoát phải hiểu rõ, nếu không đoạn thì chắc chắn sẽ đọa địa ngục, chẳng có con đường thứ hai nào khác dễ đi hơn.  Sau khi từ địa ngục thoát ra, giống những quả báo nói trong kinh bạn đều phải hứng chịu.  Nếu bạn muốn mình không đọa địa ngục, đời này có thể liễu sanh tử, thoát khỏi tam giới, vãng sanh Tịnh Ðộ thì bạn nhất định phải làm, không làm không được.  Người khác làm hay không chẳng liên quan gì đến mình, trên con đường tu hành này, Phật Tổ đã nói rất rõ ràng, giảng rất minh bạch: sanh tử của ai thì người đó liễu, ai cũng chẳng thay thế cho người khác, ‘ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, không tu thì không đắc’.  Tu cái gì?  Cải tâm (sửa đổi tâm), đó là chân tu.

Tâm của bạn sửa đổi rồi thì đương nhiên hành động của bạn cũng sẽ thay đổi.  Nếu hành vi làm giống như vậy nhưng trong tâm chẳng có sửa đổi thì không được, luận tội đều luận từ trong tâm, nhất định phải hiểu đạo lý này.  Xem tiếp đoạn cuối:

Như thị đẳng Diêm Phù Ðề chúng sanh, nghiệp hoặc sai biệt, Ðịa Tạng Bồ Tát bá thiên phương tiện nhi giáo hóa chi.
Những chúng sanh ở Diêm Phù Ðề này có nghiệp hoặc sai khác, Ðịa Tạng Bồ Tát cũng có trăm ngàn phương tiện để dạy dỗ.

Phía trước nói về tạo nghiệp, đoạn trước này.  Ðúng là ‘chúng sanh ở Diêm Phù Ðề ương ngạnh khó dạy dỗ’.  Ðịa Tạng Bồ Tát hiểu rõ, chúng ta đọc thấy trong kinh, Bồ Tát hiểu rõ, hôm nay chúng ta cũng hiểu rõ, chúng ta phải học theo Ðịa Tạng Bồ Tát, phải học tập Ðịa Tạng Bồ Tát.  Giống như Bồ Tát vậy, dùng mọi thứ thiện xảo phương tiện giáo hóa chúng sanh.  ‘Hóa’ là gì?  Chúng sanh tiếp nhận sự dạy dỗ bèn có thể quay về, đoạn dứt ác, hướng thiện, [vậy là đã chuyển] hóa rồi.  Hóa là kết quả của sự dạy dỗ, giáo là nhân, hóa là quả.  Hóa ác niệm thành thiện niệm, hóa phiền não thành Bồ Ðề, hóa phàm phu thành Bồ Tát, vậy thì sự giáo học của bạn đã đạt được mục đích, thật sự có được thành quả.   Ðây là việc chúng ta nhất định phải học tập.  Xem tiếp đoạn kinh văn phía sau:

Thị chư chúng sanh, tiên thọ như thị đẳng báo, hậu đọa địa ngục.  Ðộng kinh kiếp số, vô hữu xuất kỳ.
Những chúng sanh này trước hết phải thọ lãnh những quả báo như thế, sau đó lại đọa vào địa ngục trải qua nhiều kiếp không có kỳ hạn thoát ra.

Ở đây, đức Phật nói lời chân thật, trong kinh nói đến báo ứng là quả báo trong đời này, gọi là hoa báo.  Sau khi chết rồi chắc chắn phải đọa địa ngục.  Ðến lúc nào mới được thoát khỏi?  ‘Ðộng kinh kiếp số’, phía trước nói với chúng ta vô lượng kiếp, ‘vô hữu xuất kỳ’.  ‘Xuất kỳ’ (kỳ hạn thoát ra) chắc chắn là có, tại sao lại nói ‘vô hữu’?  Quá dài, bạn chẳng thể thoát khỏi trong thời gian ngắn.

Thị cố nhữ đẳng
Thế nên các ông

Do vì duyên cố này, Phật khuyên dạy Tứ đại thiên vương.  Tứ đại thiên vương phát tâm hộ trì, hộ thế.  Nhóm những người các ông,

Hộ nhân hộ quốc, vô lịnh thị chư chúng nghiệp mê hoặc chúng sanh
Hộ nhân hộ quốc, chớ để những nghiệp chướng đó làm mê hoặc chúng sanh.

Trong bản chú giải của Thanh Liên đại sư có viết một câu, đương nhiên ngài cũng dựa theo lời Phật nói trong kinh, tức là kinh Cựu Tạp Thí Dụ. Theo kinh ấy, đức Phật Thích Ca nói sáu mươi vạn năm ở thế gian bằng một ngày ở địa ngục.  Lúc trước lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam trong Ðại Chuyên Phật Học Giảng Tòa đã nói với học sinh các trường đại học chuyên khoa, nói đến địa ngục, một ngày ở địa ngục bằng hai ngàn bảy trăm năm ở thế gian, nói như vậy là có căn cứ.  Hai ngàn bảy trăm năm đại khái là địa ngục nhỏ, nói nhiều quá sẽ làm người ta sợ điếng người.  Trong kinh này Phật nói một ngày trong địa ngục bằng sáu mươi ức vạn năm ở cõi người.  Thời cổ Ấn Ðộ chữ ‘ức’ này có ba loại, mười vạn cũng gọi là ức, trăm vạn cũng gọi là ức, vạn vạn cũng gọi là ức.  Chúng ta dùng số nhỏ nhất, mười vạn tính là một ức.  Sáu mươi ức vạn tuổi, sáu mươi rồi nhân thêm mười, một ngày trong thế gian chúng ta, thế nên địa ngục có nên đi vào không?  Ðây là nói địa ngục lớn Vô Gián, dài lắm.  Chúng ta tạo tội nghiệp địa ngục rất dễ dàng, hiện nay bạn tạo, quả báo khổ trong tương lai bạn làm sao chịu nổi?

Trong kinh này, đức Phật phó chúc Tứ đại Thiên Vương phải hộ quốc, hộ người, đừng để các thứ nghiệp tội thế gian mê hoặc chúng sanh.  Chúng ta nghe xong lời này, trước hết phải tự phản tỉnh, nói cho chư vị biết mỗi ngày đều phải phản tỉnh.  Trong nhà Phật định ra công khóa sáng tối, tôi đã nói với mọi người, khóa sáng là để nhắc nhở chính mình, khóa tối là để phản tỉnh.  Lúc lễ đọc tụng kinh văn trong khóa tối phải hết lòng phản tỉnh.  Những gì trong kinh dạy chúng ta phải làm, chúng ta đã làm được chưa?  Dạy chúng ta đừng làm, chúng ta có vi phạm hay không?  Ðây là cách bạn chân chánh làm công khóa sáng tối.  Khóa tụng sáng tối chẳng phải đem kinh ra tụng một lần cho Phật, Bồ Tát nghe, như vậy là hoàn toàn sai lầm, Phật, Bồ Tát đâu có muốn nghe những thứ này?  Muốn độ chúng sanh thì phải độ mình trước, tự mình không tạo ác nghiệp, chính mình nhất quyết không đọa tam ác đạo thì bạn mới có khả năng giúp đỡ người khác.  Nếu nói thân mình còn giữ không nổi mà đi giúp người khác, chẳng có chuyện này.  Bởi vậy chúng ta nhất định phải đặt chân mình đứng thật vững vàng, nhất quyết chẳng đọa tam đồ.

Hơn nữa, tự mình có lòng tin kiên định, quyết định được sanh Tịnh Ðộ.  Hơn nữa nhất định có thể tự tại vãng sanh, tại sao lại nắm chắc như vậy?  Nghiệp chướng đã tiêu hết, làm sao tiêu?  Trong tâm chẳng có một tâm niệm ác, trong ý chẳng có một tư tưởng tà vạy thì bạn có thể nắm chắc.  Vãng sanh chẳng có bịnh khổ, hiện tiền chẳng có đau bịnh; chẳng có đau bịnh là hoa báo, vãng sanh chẳng có bịnh khổ là quả báo.  Tại sao người ta có thể làm được, chúng ta làm không được?  Lý do người ta có thể làm được, chẳng có gì khác, tức là trong tâm chẳng có ác niệm, trong ý chẳng có tư tưởng tà vạy, là nhờ vào điểm này.

Tứ thiên vương văn dĩ, thế lệ bi thán, hiệp chưởng nhi thoái.
Tứ thiên vương nghe xong, rơi lệ than thở, chắp tay lễ Phật mà lui ra.

Thế Tôn khai thị cho họ xong, Tứ đại thiên vương nghe xong rơi lệ, bi thán.  ‘Bi thán’ có hai nghĩa, một là than thở nghiệp tập chúng sanh quá nặng, quá nặng, ý thứ hai là tự mình trách nhiệm quá nặng.  Chúng ta muốn giúp đỡ chúng sanh, trước tiên phải giúp đỡ chính mình.

Ðược rồi, hôm nay đã hết giờ, chúng ta giảng đến đây thôi.

Trong quá trình chuyển ngữ chắc không tránh khỏi thiếu sót, xin các bậc thức giả hoan hỷ phủ chính cho.
Xin thành thật cám ơn.
Một nhóm Diệu Âm cư sĩ, 4 tháng 9-2006
_______________

[1] Khí thế gian:  Tức là cảnh giới bên ngoài, bao gồm cõi nước, thế giới v.v… tức Y Báo.

[2] Kiến Phần: Còn gọi là Năng Thủ Phần, chính là tác dụng của Thức, là chủ thể để nhận biết sự vật. Kiến có nghĩa là soi thấy, tác dụng thấu hiểu rõ ràng của tâm tánh, chiếu soi hết thảy các pháp, thấu hiểu nghĩa lý của hết thảy các pháp giống như gương hiện bóng.

Tướng Phần: Còn gọi là Sở Thủ Phần, chính là cảnh tượng của mọi sự vật thuộc thế giới bên ngoài hiện bóng trong tâm. Nói cách khác, Tướng Phần chính là hình ảnh, ấn tượng của thế giới bên ngoài được lưu giữ trong tâm thức, là đối tượng nhận biết của Kiến Phần.

Tự Chứng Phần: Còn gọi là Tự Thể Phần, Tự có nghĩa là Tự Thể, Chứng là chứng biết. Như vậy, Tự Chứng Phần là tác dụng nhận biết của tự tâm. Kiến Phần và Tướng Phần chỉ là những khía cạnh khác nhau của Tự Chứng Phần nếu xét về bản thể.

[3] Tự Chứng Phần: Còn gọi là Tự Thể Phần, Tự có nghĩa là Tự Thể, Chứng là chứng biết. Như vậy, Tự Chứng Phần là tác dụng nhận biết của tự tâm. Kiến Phần và Tướng Phần chỉ là những khía cạnh khác nhau của Tự Chứng Phần nếu xét về bản thể.

[4] “Hiển cảm hiển ứng” là ngay trong đời này dốc lòng thành, cạn lòng kính lễ niệm cúng dường thì sẽ được gia bị, gặp điều hung trở thành điều lành, gặp nạn thành may, và nghiệp tiêu, chướng tận, phước tăng, huệ rạng v.v…

[5] Hậu lai cư thượng

[6] Học làm thầy người, hành làm khuôn mẫu cho đời

[7] Ở đây, hòa thượng dùng chữ tôn giáo theo định nghĩa chữ religion trong triết học Tây Phương, tức là một chủ thuyết công nhận có một đấng chủ tể sanh ra vũ trụ, con người phải tuân phục vị đó, tin tưởng vô điều kiện. Nói cách khác là thần quyền, con người không có năng lực tự làm chủ vận mạng của chính mình. Do vậy, triết gia Bergson từng nói Phật giáo không phải là một tôn giáo là dựa theo ý nghĩa này.

[8] A Hoanh là danh xưng của thầy tế (Hồi giáo), người Trung Quốc đọc trại chữ Imam của đạo Hồi.

[9] ‘Quán hồ thiên văn, dĩ sát thời biến’

[10] Thuyết Văn Giải Tự là một bộ sách của Hứa Thận, được coi là một từ điển về tu từ học cổ nhất của Trung Hoa.

[11] Tri mạng giả bất oán thiên, tri kỷ giả bất oán nhân

[12] (Pháp nhĩ như thị)

[13] Nội Điển ở đây là khóa học Nội Điển Giảng Tọa của hòa thượng.

[14] Xú dưỡng là khí ozon, ozone, O3

[15] Lịch sử là tấm gương để soi vào hầu học hỏi kinh nghiệm của tiền nhân nên gọi là “giám sử”.

[16] Còn gọi là Quải Tích, Quải Bát, nghĩa là một vị Tăng du phương hành cước, ôm y bát, hành lý vào xin ở nhờ trong Tăng Đường một tự viện nào đó.

[17] Lưu Thủy là ông trưởng giả tiền thân của Phật Thích Ca trong kinh Kim Quang Minh, ông đãi khách rất thịnh soạn với tâm bình đẳng, ai tới cũng được đãi ăn như nhau, không phân biệt địa vị tôn quý hay sang hèn, thân hay sơ.

[18] Mở cửa tiếp xúc với thế giới bên ngoài chứ không bế quan tỏa cảng nữa

[19] Ðôn luân tận phận, nhàn tà tồn thành, thâm tín nhân quả

Tin khác

Cùng chuyên mục

error: Nội dung được bảo mật !!